TIN
TỨC THẾ GIỚI TỔNG HỢP
Đêm Hoa Đăng Bi Thảm
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
“Để tưởng nhớ đồng đội tôi đã nằm xuống trong trận Khánh Dương 31/3/1975”
( Translated into English by Merle L Pribblenow below. Thanks)
Tái chiếm Quãng Trị xong, Sư đoàn Nhảy Dù tiếp tục đóng chốt trên dảy Trường Sơn làm thành một tuyến dài Bắc Nam từ bờ Nam sông Thạch Hản về đến căn cứ Bastongne tây bắc Huế, lúc này Hiệp định Paris đã ráo mực với những đợt xâm nhập của cộng sản Bắc Việt theo đường mòn Hồ Chí Minh nằm sâu trong dảy Trường Sơn âm u, chúng định cắt Quân khu 1 làm đôi nên nhả bớt hoạt động nhưng vẫn duy trì áp lực để cầm chân hai Sư đoàn tổng trừ bị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến tại Quãng Trị để đánh vào Thường Đức thuộc tỉnh Quãng Nam, nên Lữ đoàn 3 Nhảy Dù được điều động làm thành một phòng tuyến kéo dài từ Hòa Thanh sát với Đèo Hải Vân đến bờ sông Thu Bồn để bảo vệ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 tại Đà Nẳng. Bộ Tư Lệnh Sư đoàn Nhảy Dù cũng rút về đóng tại phi trường Non Nước.
Tiểu đoàn 2 Pháo binh Nhảy Dù của chúng tôi về đến Quãng Nam giửa tháng 2 năm 1975. Sau gần ba năm hành quân ngoài Trung, lần này tôi có cãm tưởng đây là cuộc hành quân xuôi Nam lần cuối rồi giả từ vĩnh viễn miền Trung. Trung đội tôi đóng sát chân núi chỉ cách đồi 1062 độ 8 cây số để yểm trợ cho nhiều trận đánh ác liệt tại đây, Tiểu đoàn 6 Dù rồi Tiểu đoàn 3 Dù thay nhau tái chiếm ngọn đồi máu này. Gần Tết, pháo binh Thủy Quân Lục Chiến đến thay. Trung đội tôi rút ra đóng chung với Bộ chỉ huy một Tiểu đoàn Địa Phương Quân tại một ngọn đồi thoai thoải phía trước quận Đại Lộc, ngó xuống Cầu Gảy. Nhiệm vụ bây giờ chỉ là yễm trợ tổng quát tăng cường cho các đơn vị bạn, nên chúng tôi có thì giờ đi vào làng dân thăm hiểu tình hình luôn tiện làm công tác dân sự vụ. Mặc dù không phải là nhiệm vụ chính của đơn vị tác chiến như chúng tôi, nhưng thấy tình cảnh đồng bào nghèo khổ tội nghiệp quá, đau yếu thuốc men gì cũng không có, nên tôi bảo y tá có bất cứ loại thuốc gì có thể cho thì cho đồng bào rồi báo cáo xin lại sau, và gạo xấy thì tặng cho bà con hết, kể cả một số gạo thặng dư hàng ngày thay vì bán để mua thêm thức ăn cho trung đội, tôi cũng bảo đem cho hết. Ngày 30 Tết, Ban đại diện ấp và bà con đem bánh tét và bánh tổ là một loại đặc sản Quãng Nam đến tặng cho Trung đội tôi ăn Tết, tình nghỉa quân dân thật thắm thiết, nghỉ lại câu nói bạc như dân bất nhân như lính mà tôi nghe trước đây thật đúng là xuyên tạc. Viên Trưởng ấp nói với tôi quân đội mình tốt quá, ở đây thường mất an ninh, nếu Nhảy Dù mà rút đi chắc bà con chúng tôi cũng bỏ làng đi theo. Câu nói này đã in sâu vào lòng tôi nhiều năm sau này, và tôi tiếc là khi chúng tôi rời Quãng Nam vài ngày sau đó để về Nam thì đồng bào Đại Lộc không theo chúng tôi được.
Khi Thủy Quân Lục Chiến hoàn toàn thay thế Nhảy Dù tại mặt trận Thường Đức thì Sư đoàn Nhảy Dù được lệnh về hậu cứ, chúng tôi hoàn toàn không ngờ đây là một cái lệnh bỏ Quân Khu 1. Tôi được Tiểu đoàn điều động ở lại sau chót để thu dọn quân dụng lên Hải vận hạm 505 về Saigon. Sau gần hai ngày lênh đênh trên biển, thay vì về Saigon, tàu đưa chúng tôi vào quân cảng Cam Ranh rồi quân xa chở chúng tôi về Dục Mỹ. Lữ đoàn 3 Nhảy Dù đã có mặt ở Khánh Dương để chận bước tiến của đại quân cộng sản sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có ý định bỏ nốt Quân Khu 2. Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng, Nguyễn Ngọc Triệu giao cho tôi nhiệm vụ làm Sĩ quan liên lạc Lữ đoàn 3 Dù, nếu tôi về trước đó một ngày thì có lẽ không bao giờ có việc cầm bút viết lại hồi ký này vì tôi sẻ được thay thế cho Đại Úy Tuấn, Pháo đội Trưởng A2 bị bệnh nên Đại Úy Tống Văn Tùng khoá 26 Thủ Đức và là bạn học cùng lớp với tôi suốt 4 năm Trung học Trần Lục, nay là Phụ tá Ban 3 vào thay. Sau trận Khánh Dương, Tùng bị bắt và bị cộng sản Bắc Việt đem ra sân vận động Nha Trang xử tử.
Theo nhiệm vụ, tôi được quyền xin toàn bộ hỏa lực của Trường Pháo Binh Dục Mỹ gồm một pháo đội 105 ly, một pháo đội 155 ly, và một liên đội 175 ly gồm 3 khẩu để tác xạ tăng cường cho Lữ Đoàn 3 Nhảy dù gồm các Tiểu đoàn 2,5, và 6 Nhảy dù đóng từ Khánh Dương tức cửa ngỏ vào tỉnh Ban Mê Thuột chạy dài đến phía Bắc của Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn. Còn Tiểu đoàn tôi yễm trợ trực tiếp cho các đơn vị tác chiến thuộc Lữ Đoàn 3 Nhảy dù với gồm 18 khẩu đại bác 105 ly kiểu M102 kích nòng bắn cực nhanh mà chính pháo binh Hoa Kỳ cũng không được trang bị, vì chỉ dành riêng cho Pháo binh Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa là đơn vị duy nhất xử dụng loại vũ khí này cho thích hợp với đặc tính di động nhẹ. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, toàn bộ các đơn vị đồn trú rút hết về Nam qua quốc lộ số 21, và bây giờ Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù phải một mình ngăn chận các Sư đoàn 3 và 10, và một số đơn vị khác của cộng quân tại đây, tương quan lực lượng cở một chống mười làm tôi nhớ lại ngày nào Tiểu đoàn 11 Dù tử thủ Charlie tại Kontum, nay sẻ giống hệt như Lữ đoàn 3 Dù tại Khánh Dương. Cộng quân áp lực khắp nơi từ cả hai mặt đông và tây núi non hiểm trở, còn quốc lộ 21 thì cộng sản không dám theo đường bộ tràn xuống, bộ binh và xe tăng của địch theo những đường mòn trong rừng núi đánh ra đến đèo Phượng Hoàng (M’Rack) thì bị chận lại, hàng trăm xác Việt cộng bị bỏ thây tại đây cùng với một xe tăng T54, tình hình chiến sự đè nặng lên vai bố già Lữ đoàn trưởng, Đại Tá Lê Văn Phát. Không ai bảo ai, mọi người đều biết tình hình này khó thể kéo dài nếu không có quân tiếp viện, suốt trong một tuần lễ và nhất là trong hai ngày 29 và 30 tháng 3 năm 1975, các đơn vị Lữ đoàn đụng độ liên tục với cộng quân, pháo binh Nhảy Dù cùng pháo binh cộng quân đấu pháo hầu như liên tục.
Có lẻ tôi là một pháo thủ duy nhất lần đầu tiên được sử dụng toàn bộ hỏa lực của Trường Mẹ để yễm trợ chiến trường ác liệt cách Trường Pháo Binh không xa, tôi đã gọi bắn gần như liên tục ngày đêm các mục tiêu phản pháo hoặc tiêu hủy với đại bác 175 ly, và nhiều tuyến cản với đại bác 155 ly và 105 ly, ngoài các mục tiêu mà các Sĩ quan liên lạc từ các Tiểu đoàn Dù xin bắn, tôi còn phải chấm thêm nhiều tuyến cản để tác xạ. Cộng quân không pháo kích Bộ chỉ huy Lử Đoàn mà chỉ đánh các Tiểu đoàn Dù bằng pháo kích với pháo binh và xe tăng xong rồi bộ binh xung phong theo chiến thuật cổ điển tiền pháo hậu xung, Không Quân của ta từ phi trường Thành Sơn lên yễm trợ cũng không được hữu hiệu lắm đối với các chiến trường xé lẻ và tiếp cận hàng chục thước như thế này.
Đến tảng sáng ngày 31/3/1975 thì toàn thể các đơn vị tác chiến kể cả các pháo đội Pháo binh Dù bị tràn ngập, và trước khi rút đi đã phá hủy hết đại bác. Không hiểu sao Trường Pháo Binh nghe được và tự động ngưng tác xạ, tôi gọi mãi để chuẩn bị nếu các đơn vị bạn yêu cầu thì bắn ngay trên đầu cùng chết với địch tức là đồng ư quy tận, nhưng không có một đài nào trả lời hết. Độ nửa tiếng sau tôi nghe tiếng động cơ nổ liên tục tại Trường Pháo Binh mà sau cùng là tiếng xích sắt của các khẩu pháo 175 ly. Có lẽ Trường Pháo Binh đã nhận lệnh di tãn từ ở đâu đâu trước đây nên tự động tan hàng, kế đến là Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ nằm sát bên cũng tự động rút đi, và sau cùng là Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn. Một số các đơn vị thuộc Lữ đoàn 3 Nhảy dù hiện đang im lặng vô tuyến rời bỏ vị trí, chỉ biết là hầu hết bị địch tràn ngập, không một Đề lô nào cũng như Sĩ quan liên lạc pháo binh lên máy, mà có liên lạc được giờ phút này cũng không còn hỏa lực pháo binh yễm trợ nửa. Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 3 Dù ra lệnh rút và Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 2 Pháo binh Dù phải di tản theo về Đèo Rù Rì, độ một tiếng sau là gở toàn bộ căn cứ di tản ra khỏi phi trường Dục Mỹ, tôi được lệnh ở lại căn cứ với một máy truyền tin PRC 25, một tài xế, và một chiếc xe Dodge. Trung Tá Trần Đăng Khôi, Lữ Đoàn Phó dặn tôi cứ ở tại phi trường chờ ông bay trực thăng quan sát xong sẻ quay trở lại bốc tôi đi, việc để lại tài xế với chiếc xe Dodge này mang ý nghỉa nếu ông không về đón thì tôi sẻ cùng đệ tử chạy về Đèo Rù Rì tìm Lữ đoàn. Giờ này thì cả huấn khu rộng lớn và phi trường Dục Mỹ chỉ còn có một mình tôi và người đệ tử. Tôi nhìn về hướng Tây Bắc nơi hình Núi Vọng Phu vươn lên trên bầu trời nhạt nắng mai, người chinh phụ cùng đứa con hóa đá kia đã bao năm sắt son đứng đợi chồng về vẫn còn đứng đó, và ở dưới chân Bà, nhiều thế hệ sau đang viết tiếp một chương bi thảm của những người đi chinh chiến không về, lịch sử là một sự lặp lại không ngừng. Trong niềm đau thương u uất đó, tôi mong nghe có tiếng gọi của đồng đội tôi thuộc bất cứ đơn vị nào tìm đường ra quốc lộ, tôi sẻ hướng dẩn như đã làm trong quá khứ, nhưng không thấy ai lên tiếng. Gần một tiếng rồi không thấy trực thăng của Trung tá Khôi bay về, tôi mở các tần số gọi liên tục, vô vọng, kể cả tiếng Trung tá Khôi cũng không thấy trả lời. Tôi lên xe bảo người tài xế mở máy trực chỉ về Nha Trang.
Dọc đường, đồng bào bằng đủ mọi phương tiện xe đò, honda, xe bò, kể cả đi bộ, có người trên vai gánh cái gia tài vô giá là hai người con nhỏ ngồi hai đầu, họ cũng xuôi Nam theo chân quân đội quốc gia, họ đi theo đường quân đội rút, để tìm tự do. Để phục vụ cho âm mưu phản chiến, bọn phóng viên khốn nạn nước ngoài chỉ giỏi loan báo những tin thất thiệt xuyên tạc cuộc chiến tranh tự vệ của quân dân miền Nam, chúng không bao giờ có thì giờ tìm hiểu tại sao những người dân lành lánh nạn cộng sản, tại sao đồng bào tôi lại theo chân quân đội quốc gia về miền đất hứa bằng đôi chân tự do như thế này. Xế trưa thì tôi về đến Đèo Rù Rì gần Nha Trang gặp lại Tiểu đoàn, tôi trình với Thiếu Tá Triệu là không nghe bất cứ đài nào gọi. Độ nửa tiếng sau, Trung Tá Khôi cũng bay về, ông hỏi tôi sao không đợi, tôi trả lời cả một huấn khu to lớn như thế rút hết, chỉ còn hai thầy trò tôi và không liên lạc được ai nửa nên phải về đây. Lúc này tôi cũng không rỏ Lữ đoàn sẻ đi đâu, vào Nha Trang hay về Saigon theo đường bộ. Sau đó thì có lệnh rút về quân cảng Cam Ranh. Về đến cổng quân cảng thì cả một rừng quân xa của nhiều binh chủng và dân xa đủ loại đã bít kín hết cổng ra vào, xe cộ đậu dài cả chục cây số. Những người lính quân cảnh gác cảng chỉ biết lắc đầu nói không có tàu, tình cảnh này mà mở cổng thì có trời cũng không cản nổi cảnh hổn loạn.
Lúc gần chiều thì Đại Tá Phát Lữ đoàn trưởng quyết định rút về Phan Rang theo đường bộ, khi đoàn xe của Lử đoàn trở đầu ra khỏi quân cảng thì toàn thể rừng xe cộ kia cũng tự động nối đuôi, cặp bên hông là xe gắn máy của đồng bào, hàng ngàn xe cộ, dân xa, chiến xa, đại bác, và quân xa của một phần Quân khu 2 đông cở chục ngàn người theo sau đoàn quân Mũ Đỏ cở trên một trăm người mở đường tiến về Nam. Giửa cái khung cảnh bi hùng như thế, tôi có cãm tưởng giống hệt như ngày xưa ông Môi Sen dẩn dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ tìm về miền đất hứa lánh nạn quân Ai Cập. Xe chạy khá chậm để phía sau theo kịp, thỉnh thoảng phải dừng lại để quan sát dò đường. Mổi lần ngừng lại, chúng tôi năn nỉ đồng bào đừng chạy xe gắn máy cặp sát xe chúng tôi, lở bị phục kích thì bị chết oan, nhưng đồng bào cương quyết nói “Nhảy dù đi đâu chúng tôi đi theo, có chết chúng tôi cũng chịu”, đành phải để cho bà con chạy theo như thế. Trong đời lính, nếu các bạn đã từng nghe được chính miệng những người dân lành vô tội đã đặt hết sinh mạng và tài sản vào tay quân đội quốc gia trong giờ phút tuyệt vọng như thế này, mới thấy được sự hy sinh của người lính chúng ta không phải vô ích. Ngồi trên xe, nhớ lại ngày mồng 2 Tết năm 1973, tôi đi đề lô cho Tiểu đoàn 2 Nhảy dù của Thiếu Tá Nguyễn Đình Ngọc, có Đại đội 1 Hắc Báo là một đại đội bộ binh nổi tiếng nhất của Sư đoàn 1 Bộ binh do một viên Thiếu Tá làm Đại đội trưởng tăng cường đi chiếm lại làng An Lỗ nằm sát ngay quốc lộ số1 Thừa Thiên, Việt cộng vi phạm Hiệp định Paris, dành dân lấn đất, chúng đã lợi dụng ngưng bắn, chiếm trọn làng này, và dùng đồng bào làm bia đở đạn. Tôn trọng lệnh ngưng bắn, chúng tôi không sử dụng pháo binh để yễm trợ, Hắc Báo làm trừ bị, Nhảy Dù dàn hàng ngang làm nổ lực chính, cẩn thận chiếm lại từng ngôi nhà với lệnh cố gắng tối đa bằng mọi giá không làm thiệt hại đến tính mạng và nhà cửa của đồng bào, chiếm đến đâu giao cho Hắc Báo giử đến đó. Khi chiếm lại toàn bộ xã, bắt sống cũng như hạ tại chổ nhiều địch quân, nhà cửa của đồng bào hầu như còn nguyên vẹn, không một người lính Dù và đồng bào nào bị tử thương, còn hơn là phép lạ.
Đến Du Long thì trời đã tối, nhìn lại phía sau, cả chục cây số đèn pha sáng trưng, nguyên một góc trời đèn xe như một con giao long đang uốn khúc, sáng long lanh trong đêm hoa đăng bi thảm, đêm nay đồng bào Khánh Hòa bỏ phiếu cho tự do, không cần biết về đâu miễn quân đội quốc gia đi đâu thì đồng bào đi theo đến đó. Cũng may, không một tiếng súng nào nổ thêm trong đêm này và toàn bộ đoàn quân dân về đến Phan Rang bình an vô sự.
Xe của Nhảy dù chạy đi đâu thì đoàn xe khổng lồ phía sau cũng nối đuôi, đến khoảng 3 giờ sáng ngày 01/4/1975 thì vào đến Phan Rang, xe chạy ra sát biển thì dừng lại, còn đoàn xe đã tháp tùng chúng tôi thì tiếp tục cuộc hành trình vô Nam và đến Phan Thiết trong ngày hôm đó. Lử đoàn 3 Dù nhận được lệnh mới vào phi trường Thành Sơn nay do Bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 Không Quân với con phượng hoàng Phan Rang, một vị tướng mặt trận, Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang trấn nhậm, còn vị Tỉnh trưởng Phan Rang, Đại Tá Trần Văn Tự thì đang tá túc trong phi trường đến ngày 07/4/1975 mới trở về nhiệm sở. Sáng hôm sau ngày 02/4/1975, một trung đội thuộc đại đội chỉ huy của Lữ đoàn 3 Dù do một Trung sỉ hướng dẩn đi theo một viên Đại Úy Địa Phương Quân, vị này nguyên là Trưởng Ban 2 quận châu thành Phan Rang nay được đề cử giử chức tân Quận Trưởng và được Nhảy Dù hộ tống đi trấn an dân chúng. Tôi được lệnh đi theo với nhiệm vụ chính là tìm đại bác 105 ly nào của ta bỏ lại còn sử dụng được thì sẻ kéo về phòng thủ phi trường, nhưng tất cả đại bác kể cả 155ly đều bị phá nòng để lở rơi vào tay địch thì không sử dụng được. Tại tiểu khu Ninh Thuận, tôi đã gặp người thay thế ông Tỉnh đang tá túc ở trong phi trường là vị Trung Tá Tiểu khu phó, đang liên lạc bằng tiếng Anh với một chiếc trực thăng bay vòng vòng trên đầu nghe nói là của một cựu cố vấn Mỹ đang hỏi thăm tình hình. Trong lúc chờ đợi, tôi đi vòng vòng quanh tỉnh thì gặp một toán Thám Sát Tỉnh (tiếng Anh là Province Recon Unit gọi tắt là PRU), anh em này nhận ra tôi là cựu huấn luyện viên CT tiền thân của PRU, tay bắt mặt mừng, anh em cho biết tình hình trong tỉnh vẫn tương đối yên ổn tuy có vài vụ cướp bóc, còn Việt cộng thì chưa vào được thành phố. Tôi nói Nhảy Dù về giử Phan Rang, nếu thuận tiện anh em thông báo cho dân chúng biết. Xong tôi từ giả và tiếp tục đi theo xe của trung đội Nhảy Dù chạy vòng quanh thị xả tìm súng đại bác, rồi ra đến ngoại ô, đến nơi đâu viên Đại úy Quận Trưởng đều bắc loa nói Nhảy Dù đã về Phan Rang xin bà con trở lại sinh hoạt bình thường. Chỉ trong vòng một buổi sáng, đã thấy sinh khí có vẽ đã trở lại với Phan Rang, vùng đất mà từ nay đã trở thành địa đầu giới tuyến, nhưng tôi vẫn không tìm được khẩu đại bác nào còn nguyên vẹn, pháo binh quyết định chiến trường, không có pháo thì việc phòng thủ phi trường càng thêm khó khăn.
Tại cửa biển Phan Rang, sát một làng chài lưới, đồng bào báo cáo có một bọn cướp có súng, lợi dụng tình hình sôi động đã cướp bóc nhũng hại dân lành cả tháng nay, hiện bọn này đang nằm ở nhà, xin quân đội đi bắt, viên Đại Úy không còn quân này xin Nhảy Dù đi bắt cướp, tôi đề nghị viên Trung sĩ Trưởng toán Nhảy Dù cho đi, và đã bắt được hai tên cướp này thật dễ dàng, rồi trói lại rồi đưa ra ngay cửa biển nơi có chiếc ghe của gia đình tên chánh đảng cướp đang neo tại bến. Bà con nghe tin kéo đến thật đông, viên Đại Úy hỏi ý kiến bà con xử trí như thế nào, mọi người đều hô to xử tử, nhanh như chớp viên Đại Úy Quận Trưởng lập tức giơ M16 nhắm vào tên chánh đảng đang quỳ cách đó khoảng chục thước và bắn ba phát, tên chánh đảng vừa giảy chết thì chiếc ghe kia cũng mở máy chạy. Còn lại tên thứ hai thì có một vị bô lảo nói là con và xin tha, vì con ông chỉ là đồng bọn bị ép buộc, nay dân chúng cũng xin bảo lãnh tha tội chết, tôi cũng nói thêm vào xin Đại Úy tha cho nó, và thật giống như là xi nê, tên này được viên Quận Trưởng cởi trói và tha tại chổ giống như “not guilty” tại phiên tòa xử vô tội tại Mỹ. Chuyện này về sau xem phim Hồng Kông, tôi có ý nghỉ ngộ nghĩnh là Nhảy Dù dẫn Bao Công đi xử án tại Phan Rang.
Về đến Tiểu đoàn, tôi báo cáo mọi chuyện, Thiếu Tá Triệu cắt tôi tiếp tục làm Sĩ quan liên lạc Lữ Đoàn đặt cạnh Bộ chỉ huy hành quân chiến cuộc của Không Quân, và nhờ phương tiện liên lạc tốt của Không Quân, tôi đã liên lạc được Hải pháo Hoa Kỳ ngoài khơi hải phận Việt Nam qua một sĩ quan liên lạc hải pháo người Việt. Tôi trình bày mọi việc và yêu cầu yễm trợ hải pháo khi đụng trận, vì hiện nay chúng tôi không còn pháo binh, họ chấp thuận yêu cầu trên nguyên tắc, nhưng sau đó đã lờ đi vì Hoa Kỳ vĩnh viễn phủi tay với người bạn đồng minh. Ngày 9/4/1975 đã diễn ra một cuộc bốc quân cuối cùng và vĩ đại nhất của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, Không đoàn 72 chiến thuật của Trung tá Lê Văn Bút đã dùng 40 trực thăng UH1B cộng với 12 trực thăng võ trang, và 8 chiếc trực thăng Chinook từ phi trường Biên Hòa ra bay ngược về Khánh Dương bốc “một slick duy nhất” được gần hết các quân nhân Lử Doàn 3 bị thất lạc gần 600 người mà đa số là Tiểu đoàn 5 Nhảy dù của Trung Tá Bùi Quyền và một số anh em Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 6 Dù, còn riêng các pháo đội Nhảy dù thì sau này có người tìm ra được quốc lộ và cuối cùng về đến đơn vị chỉ được vài người, còn lại ngoài số bị tử trận, một số bị bắt làm tù binh như Đại úy Nguyễn Thái Chân hàng chục năm sau mới được trả tự do. Vài ngày sau, khi toàn bộ Lữ đoàn 2 Dù ra thay Lữ đoàn 3 xong, và Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi ra làm tư lệnh mặt trận Phan Rang, thì Tiểu đoàn tôi được lệnh trở về hậu cứ Nguyễn Huệ để bổ xung lực lượng sau gần 3 năm tham chiến tại miền Trung.
Qua cửa phi cơ nhìn xuống Phan Rang, quốc lộ số 1 với những hàng dừa ngút ngàn chạy song song với biển Thái Bình Dương, tôi còn hình dung được hơn một tuần trước, ở phía dưới kia đã diễn ra một đêm hoa đăng bi thảm soi đường cho một cuộc di tản trong vòng trật tự, vì tự do, vì đồng bào, chúng tôi đã ngồi dậy, và cầm súng tiếp tục chiến đấu.
“Night of the Flowered Lanterns” [Đêm Hoa Đăng Bi Thảm]
By Nguyen Van Lap [Nguyễn Văn Lập]
Translated by Merle L Pribbenow
After recapturing Quang Tri, the Airborne Division remained stationed there atop the Annamite Mountain Range, deployed in a long line north to south, running from the southern banks of the Thach Han River to Fire Support Base Bastogne, northwest of Hue. At this time the ink on the Paris Agreement had dried with waves of North Vietnamese communist infiltration down the Ho Chi Minh deep within the vast Annamite Mountain Range. The communists planned to cut Military Region I in two, so they reduced their activities but still kept up pressure to tie down the two general reserve divisions, the Airborne and Marine Divisions, in Quang Tri so that they could attack Thuong Duc in Quang Nam Province. The 3rd Airborne Brigade was sent down to deploy in a line stretching from Hoa Thanh near the Hai Van Pass to the banks of the Thu Bon River to protect the I Corps Headquarters in Da Nang. The Airborne Division Headquarters also moved back and re-located at the Non Nuoc Airfield.
Our 2nd Airborne Artillery Battalion moved down to Quang Nam Province in mid-February 1975. After nearly three years of operations in Central Vietnam, this time I had the feeling that this would be our last move south before we bade farewell forever to Central Vietnam. My platoon was stationed at the foot of a mountain only eight kilometers from Hill 1062 in order to support many savage battles that were fought there. The 6th Airborne Battalion and then the 3rd Airborne Battalion took turns recapturing this bloody hilltop position. Just before Tet, Marine artillery arrived to replace us. My platoon pulled back to a position co-located with the headquarters of an RF battalion stationed on a gently sloping hill in front of the Dai Loc district capital, looking down on Cau Gay [Broken Bridge]. Our mission at that time was just to provide general support to friendly units, so we had time to go out into the local villages to find out the situation and to carry out civilian proselyting and support operations. Even though this was not the primary mission of combat units like ours, after seeing the poverty and the hardship that the local civilians suffered, with no medicine for the sick, I told our medic to give the civilians whatever medications they needed and then request replacement supplies later. We also gave all of our milled rice to the people, including even the leftover rice from the daily rations. Rather than selling the leftover rice to buy other types of food for the platoon, as we usually did, I told my men to take it all out and give it to the civilians. On the last day before the Lunar New Year, the local hamlet committee and the local civilians brought Tet cakes and “Banh To,” a Quang Nam Province specialty cake, to give to our platoon to celebrate Tet. There was great affection between the soldiers and the civilians, and I knew that the old saying, “As ungrateful as civilians, as inhuman [savage]as soldiers,” that I had heard earlier was truly a lie. The district chief told me that our army was very good. He said that security was usually bad in the area and that if the paratroopers left, he and the rest of the civilian residents of the hamlet would probably leave as well. That statement has remained deeply engraved in my memory for many years, and I am sorry that when we left Quang Nam a few days later to move south that the citizens of Dai Loc were unable to accompany us.
After the Marines completed their replacement of the Airborne Division on the Thuong Duc Front, the Airborne Division was ordered to return to our rear base [in Saigon]. We never suspected that this was actually an order to abandon Military Region 1. The battalion ordered me to remain behind to the end to collect our quartermaster gear and load it aboard LST HQ-505 for shipment back to Saigon. After almost two days at sea, instead of returning to Saigon the ship delivered us to the Military Port of Cam Ranh Bay, and then military trucks transported us to Duc My. The 3rd Airborne Brigade was already in Khanh Duong to block the advance of the communist army after President Nguyen Van Thieu decided to abandon Military Region 2.
The battalion commander, Major Nguyen Ngoc Trieu, assigned me as Liaison Officer to the 3rd Airborne Brigade. If I had arrived one day earlier I might not have ever been able to write this account, because I would have been assigned to replace Captain Tuan, the commander of Battery A2, who had become ill. Captain Tong Van Tung, a graduate of Thu Duc Officers School Class 26 and a classmate of mine for four years at Tran Luc High School, who had been Assistant G-3, was assigned to replace Captain Tuan. After the battle of Khanh Duong Tung was captured, and the North Vietnamese took him out to the Nha Trang Soccer Stadium and executed him there.
My orders gave me authority to call on all the firepower of the Duc My Artillery School, consisting of one battery of 105mm howitzers, one battery of 155mm howitzers, and one section of three 175mm long-range guns, to reinforce the combat units assigned to the 3rd Airborne Brigade, which included 18 fast-firing Type M-102 105mm howitzers, a weapon that had not even been issued to U.S. artillery units, because it was reserved specially for the ARVN Airborne Artillery, which was the only unit that employed this light, mobile gun. After Ban Me Thuot was overrun, all units stationed there withdrew south down Route 21, and at this time the 3rd Airborne Brigade was left all alone to block the communist 3rd and 10th Divisions, along with a number of other units that gave the enemy a ten-to-one superiority over us. I remember thinking that the 3rd Airborne Brigade’s defense of Khanh Duong would be just like the 11th Airborne Battalion’s defense to the death at Fire Support Base Charlie in Kontum in 1972.
Communist forces pressured us everywhere, both east and west of the rugged mountain, but the communists did not dare to drive down Route 21 to flood into the lowlands. Instead their infantry and tanks moved down trails through the mountains to attack the M’Drack Pass, but they were blocked their and left hundreds of bodies and one T-54 tank strewn across the battlefield. The entire weight of this military pressure was placed on the shoulders of the “Old Man,” the Brigade Commander – Colonel Le Van Phat. Without anyone saying anything to anyone else, everyone realized that it would be difficult to maintain our positions unless we received reinforcements. For an entire week, and especially on 29 and 30 March 1975, the brigade’s units clashed with communist forces continuously, and airborne artillery constantly dueled against communist artillery units. Perhaps I was the first and only artillery officer ever to utilize the entire firepower of our Mother School [the Artillery School]to support savage fighting not far from the Artillery School. I called in artillery virtually continuously, night and day. I called in counter-battery and destructive barrages to the 175mm guns and laid down many blocking barrages with 105mm and 155mm howitzers. In addition to the targets requested by the liaison officers with the individual airborne battalions, I also marked out many blocking lines for artillery fire. Communist forces did not shell the brigade headquarters but instead just hit the individual airborne battalions with artillery and tank fire and then followed up with infantry assaults, in accordance with their old, familiar tactics. Our air force flying out of Thanh Son [Phan Rang] Airfield provided air support, but it was not very effective because of the widely-scattered nature of the fighting and because the battles were fought at close range, with the opposing forces separated from one another by only a few dozen meters.
By dawn on 31 March 1975 all of our combat units, including our airborne artillery batteries, had been overrun. Before they retreated they destroyed all of their guns. I do not know if the Artillery School heard the radio reports about what had happened, but they suddenly stopped firing. I called the school continuously to be ready in case we got a request from one of our friendly units for fire right on top of their own positions, but no one replied to my radio messages. After about half an hour I heard a long series of explosions from the direction of the Artillery School and then heard the sound of the tracks of the self-propelled 175mm guns. Perhaps the Artillery School had received an order from somewhere to evacuate, and that is why they deserted their positions. They were followed by the Duc My Ranger Training School, which was located right next to the Artillery School, and finally the Lam Son Training Center also was evacuated. A number of units of the 3rd Airborne Brigade that were maintaining radio silence abandoned their positions. I only knew that almost all our units had been overrun. No commander and no artillery liaison officer came up on the radio, and even if we had made radio contact there was no artillery support left in any case.
The 3rd Airborne Brigade Headquarters gave the order to retreat, and the headquarters of the 2nd Airborne Artillery Battalion had to evacuate with them back to the Ru Ri Pass. About an hour later we had packed up the entire base and evacuated back from the Duc My Airfield when I received an order to stop and stay at the base with a PRC-25 radio, a driver, and a Dodge truck [a half-ton truck]. Lieutenant Colonel Tran Dang Khoi, the Deputy Brigade Commander, instructed me to remain at the airfield to wait for him as he flew in a helicopter to inspect the situation. He said he would return to pick me up, but leaving me with a driver and a Dodge truck meant that if he did not return to pick me up I and the driver were to flee back to the Ru Ri Pass to find the brigade. At that time in the entire vast training area the only people left were my driver and I. I looked off to the northwest, where I could see the shape of Widow’s Mountain in the pale sunlight. The faithful wife and her child, both of whom had waited so long that they had turned to stone, still waited there, and at the Widow’s feet many succeeding generations were playing out another tragic chapter in the story of those who go off to war and do not return, history repeating itself over and over again [Translator’s Note: This is all an allusion to an old Vietnamese story, told in a famous Vietnamese work of literature, of the loyal wife and child who wait patiently for the husband and father who goes off to war and never returns. The wife and child waited so long that finally they turned to stone]. With my heart filled with sadness and pain, I longed to hear the voice of my comrades-in-arms, from any unit at all, calling for help in finding their way out to the main road, so that I could guide them as I had so many times in the past, but I heard nothing.
After almost an hour of waiting, Lt. Colonel Khoi’s helicopter still had not returned. I switched from frequency to frequency and made radio calls constantly, but it was hopeless. There was no response – not even from Lt. Colonel Khoi. I got in the truck and told the driver to start the engine and head back to Nha Trang. Along the way we saw civilians traveling by every conceivable method – by bus, by motorcycle, by oxcart, and even walking. Some people carried their most precious possessions – their children – on their shoulders. All were headed south, following the national army. They were following the route of the army’s retreat, trying to see freedom. To serve their anti-war schemes, the damned foreign journalists only put out false and distorted stories about the war of self-defense being fought by the people of South Vietnam. They never took the time to find out why innocent civilians fled from the communists, and why my compatriots followed on the heels of the national army, trying to reach the promised land of freedom on foot.
Around noon I reached the Ru Ri Pass near Nha Trang and met up with my battalion. I reported to Major Trieu that I had not been able to make radio contact with anyone. About half an hour later Lieutenant Colonel Khoi flew in. He asked me why I had not waited for him. I replied that the entire vast training area had been evacuated and was completely empty. The only people left there were my driver and I, and I had not been able to contact anyone on the radio, so I had been forced to pull back to this location. At that time I still did not know where the brigade would go, to Nha Trang or back to Saigon by road. Then we received an order to retreat to the Cam Ranh Military Port. When we reached the military port we found a huge crowd of military vehicles (including every branch of service) and civilian vehicles of all kinds completely blocking the gate and stretching out in a line at least ten kilometers long. The military policemen standing guard at the gate to the port could only shake their heads to deny entrance and tell people that there were no ships at the port. In this situation, if the gates had been opened even the gods could not have prevented chaos and rioting.
As evening approached Colonel Phat, the Brigade Commander, decided to move back to Phan Rang by road. When the brigade’s convoy turned around to leave the port area, the entire crowd of vehicles followed behind us. With motorcycles carrying civilians putting along beside the flanks of our trucks, thousands of vehicles, including civilian cars, tanks, artillery pieces, and military trucks representing a portion of Military Region 2’s forces, a total of at least ten thousand people, followed behind the small convoy of Red Beret paratroopers, totaling little more than a hundred men, who led the way south. In the middle of this tragic situation I had the feeling that I was in a scene from the Old Testament in the Bible, when Moses led the Israelites across the Red Sea to the Promised Land to escape the Egyptian army. The trucks drove rather slowly to allow the vehicles behind to keep up, and occasionally we had to stop to allow us to observe and check out the road ahead. Each time we stopped, we pleaded with the people not to drive their motorcycles right next to our trucks, because if we ran into an ambush they might be killed as well. However, the people determinedly replied, “Wherever you paratroopers go, we will follow. If you die, we will die with you.” So we had to let them continue to accompany us in this manner. In one’s military career, when one heard from their own mouths how innocent civilians placed their lives and property in the hands of the national army at such a hopeless, tragic moment, one realized that the sacrifices of our soldiers were not in vain.
As I sat in my vehicle, I remembered back to the second day of Tet of 1973. I was assigned as artillery officer to Major Nguyen Dinh Ngoc’s 2nd Airborne Battalion. The 1st “Black Panther” [Hac Bao] Company, the most famous infantry company in the 1st Infantry Division, a company that was commanded by a major, was attached to the battalion as reinforcements. The battalion had been ordered to recapture An Lo village, located right along Route 1 in Thua Thien Province. The Vietcong, in violation of the Paris agreement to seize people and territory, had exploited the ceasefire to capture this entire village and were using the civilian residents as human shields. Respecting the ceasefire order, we did not use artillery to provide fire support. With the Black Panthers serving as the reserve force and the paratroopers deployed in a line to conduct the main effort, we carefully retook the area, one house at a time, with orders to make every possible effort not to harm the lives or property of the civilian residents. As we advanced, we turned over responsibility for the retaken area to the Black Panthers. After we recaptured the entire village, we had captured or killed a large number of enemy troops, but the houses of the people were all virtually intact and not a single paratrooper or civilian had been killed. It was a miracle – more than a miracle.
By the time that we reached Du Long night had fallen. Looking back behind our convoy, I could see headlights stretching back into the distance, at least ten kilometers. An entire section of the night sky was illuminated by the headlights of the vehicles. It looked like an enormous dragon twisting and turning, shining brightly in this tragic night of flowered lanterns. That night the people of Khanh Hoa cast their votes for freedom. They did not care where they were going – they were determined to follow the national army, wherever it went. Fortunately, not a shot was fired that night, and the entire long column, both military and civilian, arrived in Phan Rang safely.
Followed by this gigantic vehicle convoy, the airborne trucks arrived at Phan Rang at about 3:00 A.M. on the morning of 1 April 1975. The vehicles down right next to the seashore and stopped, while the vast convoy of vehicles that had accompanied us continued their long journey south and reached Phan Thiet that same day. The 3rd Airborne Brigade received new orders to move into the Thanh Son Airfield, which was occupied by the Headquarters of the 6th Air Division, led by the Phoenix of Phan Rang, a Front-Line General, Brigadier General Pham Ngoc Sang. The Phan Rang Province Chief, Colonel Tran Van Tu, was taking shelter inside the airfield, and he stayed there until 7 April 1975 before he finally returned to his own headquarters.
On the morning of 2 April 1975 a platoon from the 3rd Brigade’s headquarters company was sent out, led by a sergeant and accompanied by an RF captain. The RF captain, who had been the G-2 of the Phan Rang City district headquarters, had been appointed as the new district chief and he was being sent out, with a security detail of paratroopers, to calm the fears of the civilian population. I was ordered to accompany this group. My primary duty was to try to find any operable 105mm howitzers that had been abandoned by other units to bring back to help defend the airfield. However, the barrels of all the cannons I found, including the 155mm howitzers, had been destroyed by our retreating forces to prevent them from falling into enemy hands. None of them were usable. At the Ninh Thuan Province Military Headquarters I met the officer who had replaced the province chief, who was still hiding at the airfield. This man was a lieutenant colonel, the deputy province chief, and he was talking in English on the radio to a helicopter that was circling overhead. I heard that the person in the helicopter was a former American advisor who was checking on the situation. While waiting, I took a walk around the province compound and ran into a PRU (Provincial Reconnaissance Unit) team. They recognized me as a former CT (Counter-Terror) instructor – the CTs were the predecessor organization to the PRU. They joyfully greeted me and told me that the situation in the province was still relatively calm. Although there had been a few incidents of robbery and looting, the Viet Cong had still not yet been able to enter the city. I told them that the Airborne had arrived to defend Phan Rang, and said that whenever they had the chance they should tell the civilian population that we were here. Then I said goodbye and drove off in the truck with the airborne platoon to drive around the city to look for artillery pieces we could use. We then drove around the outskirts of the city. Everywhere we went the RF captain who was now the district used a bullhorn to inform the civilian population that the paratroopers had arrived in Phan Rang and to ask the people to return to their normal daily lives. In just a single morning we saw life return to Phan Rang, an area that had now become our northern front line. However, I still was unable to find a single artillery piece that was serviceable. Artillery is the king of the battlefield, and without artillery defending the airfield would be even more difficult.
At the Phan Rang Inlet, right next to a fishing village, local residents told us that there was a gang of armed robbers who had been exploiting the unsettled situation to rob from the village residents for the past month. The people said that the robbers were at home and asked the army to arrest them. The RF captain had not troops, so he asked the paratroopers accompanying him to arrest the thieves. I asked the sergeant commanding the airborne detail to let me come along. We captured two of the thieves easily, tied them up, and took them out to the inlet, where a sampan belonging to the family of their ringleader was anchored. Local residents swarmed around to watch. The captain asked the people how he should handle the thieves. Everyone shouted that they should be executed. Quick as a flash, the captain aimed his M-16 at the ringleader, who was kneeling about ten meters away, and fired three rounds. As the ringleader’s body shuddered in his final death throes, the sampan started its engine to escape. An old man who said he was the father of the second thief came forward and asked that he be pardoned because the father said that the others had forced his son to commit these crimes. The other residents also asked that the second thief not be executed. I also suggested to the captain that he release this man. Just like a scene out of a movie, the captain untied the man and released him, just like a “not guilty” verdict in a trial in the United States. Much later, while watching a Hong Kong movie, I suddenly thought that the paratroopers were taking Bao Cong [the character]out to execute him in Phan Rang.
When I got back to battalion headquarters I reported everything that had happened on my trip. Major Trieu ordered me to continue to serve as liaison officer at brigade headquarters, which was located next to the Air Force Combat Operations Headquarters. Using the Air Force’s excellent radio equipment, I made contact with a U.S. warship off the coast through a Vietnamese naval gunfire support officer. I reported everything that was happening and, because we had no artillery of our own, I requested that the ship provide naval gunfire support if fighting broke out. The warship accepted my request in principle, but later they ignored us, because the U.S. had already washed its hands of any involvement with its former ally.
On 9 April 1975 VNAF conducted its last and its largest troop evacuation. Lieutenant Colonel Le Van But used 40 UH-1B helicopters, along with 12 helicopter gunships and eight Chinook helicopters from Bien Hoa Airfield to fly up to Khanh Duong and pick up in a single lift virtually all of the missing 3rd Brigade personnel, almost 600 men. Most of them were from Lieutenant Colonel Bui Quyen’s 5th Airborne Battalion, and there were also some men from the 2nd and 6th Airborne Battalions. As for the personnel of the airborne artillery batteries, only a few of them found their way back down the highway and arrived back at the unit. The rest were either killed in battle or where taken prisoner, like Captain Nguyen Thai Chan who spent a decade in prison before he was finally released.
A few days later, when the entire 2nd Airborne Brigade arrived to replace the 3rd Airborne Brigade and when Lieutenant General Nguyen Vinh Nghi arrived to serve as Front Commander of the Phan Rang Front, my battalion was ordered to return to Nguyen Hue Base, our rear base, to receive replacement personnel after almost three years of fighting in Central Vietnam.
Looking out of the window of the aircraft at Phan Rang, I saw Route 1 lined with its long rows of coconut palms running parallel to the coast. I could still picture in my mind the scene from more than a week before, when the area below me had witnessed a night of tragic flowered lanterns, lighting the road in an orderly evacuation conducted for the sake of freedom and for the people. We sat up and gripped our weapons to continue to fight.
Ân Xá Quốc Tế : Việt Nam giam giữ gần 100 tù nhân lương tâm
Ảnh minh họa. Chụp màn hình website Amnesty International(Capture d'image @https://www.amnesty.org
Theo nghiên cứu mới nhất của Amnesty International (Ân Xá Quốc Tế), hiện có ít nhất 97 tù nhân lương tâm trong các trại giam ở Việt Nam, đa số phải sống trong các điều kiện tệ hại và bị ngược đãi. Danh sách này được công bố hôm nay 04/04/2018, một ngày trước khi sáu nhà hoạt động bị đưa ra xét xử, trong đó có năm người thuộc Hội Anh Em Dân Chủ.
Ông James Gomez, giám đốc Amnesty International tại Đông Nam Á tuyên bố: « Việt Nam là một trong những nhà tù tích cực nhất Đông Nam Á – một danh hiệu đáng xấu hổ. Cả 97 tù nhân lương tâm mà chúng tôi biết được là những con người can đảm, đã bị mất đi tự do chỉ vì muốn thúc đẩy nhân quyền. Điều tệ hại nhất là con số này có thể thấp hơn so với thực tế ».
Danh sách 97 tù nhân lương tâm do tổ chức phi chính phủ này đưa ra gồm có các nhà đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền và môi trường một cách ôn hòa, các blogger, luật sư; nhiều người bị những bản án nặng nề. Theo Amnesty International, các tù nhân lương tâm bị giam trong những điều kiện tệ hại như biệt giam, bị từ chối cho gặp luật sư và thân nhân; một số bị đánh đập.
Ngày mai 05/04/2018, sẽ mở ra phiên xử sáu nhà hoạt động tại Hà Nội gồm năm thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ (Nguyễn Văn Đài, Phạm Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn, Trương Minh Đức, Lê Thu Hà) và ông Nguyễn Bắc Truyển. Tất cả đều bị cáo buộc « hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân », và theo Amnesty, có nguy cơ đối mặt với những bản án nặng nề như chung thân, thậm chí tử hình.
Ông James Gomez kêu gọi Việt Nam trả tự do vô điều kiện cho sáu nhà đấu tranh trên, đồng thời phóng thích toàn bộ các tù nhân lương tâm, hủy bỏ các đạo luật hình sự hóa các hoạt động ly khai ôn hòa.
YouTube shooter self-described as 'vegan bodybuilder,' claimed censorship before rampage
|
YouTube shooting injures 4, woman believed to be shooter dead, police say
Cụ thể, phi đội F-35C sẽ thay thế phi đội F/A-18E/F Super Hornets hiện đang đóng quân ở căn cứ không hải quân Atsugi nằm gần thủ đô Tokyo. Ngoài ra, hải quân Mỹ hiện còn có kế hoạch cắt giảm số lượng máy bay ở căn cứ Atsugi xuống còn 60 chiếc.
Hải quân Mỹ chọn điều động F-35C tới căn cứ Iwakuni do đây là căn hoạt động của các chiến đấu cơ F-35B thuộc lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ. Bên cạnh đó, việc đưa F-35C tới Iwakuni cũng sẽ giúp Mỹ không cần xây dựng thêm các cơ sở quân sự để phục vụ hoạt động của siêu tiêm kích này.
Theo kế hoạch, F-35C sẽ lần đầu tiên được triển khai hoạt động trên tàu sân bay USS Carl Vinson vào năm 2021.
Việc hải quân Mỹ chọn điều động siêu tiêm kích F-35C tới Nhật Bản sau năm 2021 được xem là thông tin không gây ngạc nhiên. Bởi Nhật Bản nằm gần Trung Quốc, Nga và Triều Tiên. Do đó, sự xuất hiện của F-35C được xem là phương pháp duy trì hòa bình ngăn chặn các mối đe dọa từ những quốc gia khác.
Trong khi Tổng thống Trump nói sẽ sớm rút quân khỏi Syria thì Lầu Năm Góc lại công bố kế hoạch gửi thêm lính tới quốc gia Trung Đông này.
|
|
|
|
|
|
|
Chiến tranh mậu dịch
Nguyễn Xuân Nghĩa
2018-04-03
Nguyễn Xuân Nghĩa
2018-04-03
2018-04-03
Trận chiến mậu dịch khai mào
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Chúng ta vừa bước vào Quý 2 của năm 2018 thì điều người ta e ngại đã xảy ra khi Chính quyền Bắc Kinh quyết định nâng thuế nhập nội 10% trên 120 mặt hàng và 25% trên tám món hàng của Mỹ xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc với kim ngạch lên tới ba tỷ đô la. Dường như biến động ấy làm thị trường chứng khoán tại Mỹ tuột giá mạnh. Theo dõi chuyện này từ đã lâu, ông thấy thính giả của chúng ta nên nghĩ thế nào về trận chiến mậu dịch vừa khai mào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trước hết, về biến động trên thị trường chứng khoán Mỹ, ta có thể đếm ra ba bốn nguyên do khác nhau mà nỗi e sợ về trận chiến mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc chỉ là một. Mươi hôm trước, ta cũng thấy hiện tượng đó khi cổ phiếu sụt giá bốn ngày trong một tuần vì e ngại rồi đầu tuần sau lại lên giá mạnh. Bản thân tôi thì cho rằng chúng ta nên nhìn sự thể trong lâu dài và trên toàn cảnh thay vì bị dao động bởi những nhận định ngắn hạn.
- Sự thể có khi khởi sự từ cả chục năm qua khi lãnh đạo Bắc Kinh có chính sách trục lợi bất chính trong quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ, là điều ta sẽ phân tích sau. Kế tiếp, sự thể manh nha từ năm ngoái khi Chính quyền Donald Trump chỉ thị các cơ quan hữu trách nghiên cứu về những thiệt hại do chính sách mậu dịch của Trung Quốc gây ra cho Hoa Kỳ. Ít ai chú ý tới các chỉ thị ấy cho đến khi kết quả nghiên cứu được báo cáo lên trên. Sau khi được báo cáo và theo đúng thủ tục, Tổng thống Mỹ mới thông báo việc có thể áp thuế trên các mặt hàng nhập khẩu như thép và nhôm, đó là vào ngày 16 Tháng Hai. Qua ngày 22 Tháng Ba, ông Trump thông báo tiếp một số biện pháp trừng phạt sẽ áp dụng vì Bắc Kinh không tôn trọng luật lệ về tác quyền. Trong thực tế, Hoa Kỳ chưa áp dụng các biện pháp này. Nhưng Bắc Kinh lại nhanh tay ra đòn trước là sẽ không tuân thủ quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO mà tăng thuế nhập nội trên 128 mặt hàng của Mỹ. Chuyện nó rắc rối phức tạp chứ không đơn giản như truyền thông loan tải theo kiểu mỳ ăn liền!
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Chúng ta vừa bước vào Quý 2 của năm 2018 thì điều người ta e ngại đã xảy ra khi Chính quyền Bắc Kinh quyết định nâng thuế nhập nội 10% trên 120 mặt hàng và 25% trên tám món hàng của Mỹ xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc với kim ngạch lên tới ba tỷ đô la. Dường như biến động ấy làm thị trường chứng khoán tại Mỹ tuột giá mạnh. Theo dõi chuyện này từ đã lâu, ông thấy thính giả của chúng ta nên nghĩ thế nào về trận chiến mậu dịch vừa khai mào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trước hết, về biến động trên thị trường chứng khoán Mỹ, ta có thể đếm ra ba bốn nguyên do khác nhau mà nỗi e sợ về trận chiến mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc chỉ là một. Mươi hôm trước, ta cũng thấy hiện tượng đó khi cổ phiếu sụt giá bốn ngày trong một tuần vì e ngại rồi đầu tuần sau lại lên giá mạnh. Bản thân tôi thì cho rằng chúng ta nên nhìn sự thể trong lâu dài và trên toàn cảnh thay vì bị dao động bởi những nhận định ngắn hạn.
- Sự thể có khi khởi sự từ cả chục năm qua khi lãnh đạo Bắc Kinh có chính sách trục lợi bất chính trong quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ, là điều ta sẽ phân tích sau. Kế tiếp, sự thể manh nha từ năm ngoái khi Chính quyền Donald Trump chỉ thị các cơ quan hữu trách nghiên cứu về những thiệt hại do chính sách mậu dịch của Trung Quốc gây ra cho Hoa Kỳ. Ít ai chú ý tới các chỉ thị ấy cho đến khi kết quả nghiên cứu được báo cáo lên trên. Sau khi được báo cáo và theo đúng thủ tục, Tổng thống Mỹ mới thông báo việc có thể áp thuế trên các mặt hàng nhập khẩu như thép và nhôm, đó là vào ngày 16 Tháng Hai. Qua ngày 22 Tháng Ba, ông Trump thông báo tiếp một số biện pháp trừng phạt sẽ áp dụng vì Bắc Kinh không tôn trọng luật lệ về tác quyền. Trong thực tế, Hoa Kỳ chưa áp dụng các biện pháp này. Nhưng Bắc Kinh lại nhanh tay ra đòn trước là sẽ không tuân thủ quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO mà tăng thuế nhập nội trên 128 mặt hàng của Mỹ. Chuyện nó rắc rối phức tạp chứ không đơn giản như truyền thông loan tải theo kiểu mỳ ăn liền!
Bắc Kinh trục lợi bất chính
Nguyên Lam: Như vậy thì Mỹ mới chỉ thông báo một số biện pháp sẽ áp dụng chứ chưa ban hành nhưng Bắc Kinh lại có biện pháp trả đũa trước dù chỉ liên hệ đến một ngạch số chừng ba tỷ đô la mà thôi trong luồng giao dịch lên tới mấy trăm tỷ giữa hai nước. Nguyên Lam xin đề nghị là chúng ta khởi sự từ nguyên ủy như ông đã trình bày nhiều lần trên diễn đàn này. Trước hết là về chuyện Bắc Kinh đã có chính sách trục lợi bất chính trong quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Năm 2000, Chính quyền Bill Clinton chấp thuận cho Trung Quốc được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm sau. Khi ấy, Quốc hội Mỹ bèn cho lập ra một Hội đồng Duyệt xét Quan hệ Kinh tế và An ninh Mỹ-Hoa để thường xuyên tường trình mọi sự lợi hại lên giới dân cử của Lập pháp thẩm định. Hội đồng “U.S.-China Economic and Security Review Commission” do các thành viên được lãnh đạo hai đảng bổ nhiệm và tuyển dụng các chuyên gia về an ninh, kinh tế và Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu và phúc trình của cơ quan độc lập này được niêm yết công khai, nhưng ít ai chịu tham khảo, kể cả báo chí!
Trong thực tế, Hoa Kỳ chưa áp dụng các biện pháp này. Nhưng Bắc Kinh lại nhanh tay ra đòn trước là sẽ không tuân thủ quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO mà tăng thuế nhập nội trên 128 mặt hàng của Mỹ. Chuyện nó rắc rối phức tạp chứ không đơn giản như truyền thông loan tải theo kiểu mỳ ăn liền!
-Nguyễn Xuân Nghĩa
- Tháng trước, Hội đồng có báo cáo về “Các khí cụ của chủ nghĩa kỹ thuật quốc gia của Trung Quốc”. Họ đi từ sách lược “Chế tạo tại Trung Quốc năm 2015” do Bắc Kinh đề ra trong “Kế hoạch Năm năm thứ 13, từ 2016 tới 2020” để ưu tiên phát triển 10 khu vực then chốt và nhắm vào các chiến lược toàn diện, trường kỳ hầu lập ra các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh nội địa và quốc tế. Điều đáng chú ý là 10 khí cụ được Bắc Kinh áp dụng để thực hiện chính sách của họ.
- Sau đó, trong phúc trình định kỳ và mới nhất, Hội đồng này cũng giải thích về Mục 301 của Đạo Luật Thương Mại 1974 mà Chính quyền Trump mới viện dẫn để đề nghị áp thuế. Nếu chịu khó tham khảo các tài liệu thuộc về bối cảnh phức tạp này thì chúng ta sẽ tỉnh táo hơn và bớt tin vào báo chí lười biếng.
Nguyên Lam: Như vậy thì Mỹ mới chỉ thông báo một số biện pháp sẽ áp dụng chứ chưa ban hành nhưng Bắc Kinh lại có biện pháp trả đũa trước dù chỉ liên hệ đến một ngạch số chừng ba tỷ đô la mà thôi trong luồng giao dịch lên tới mấy trăm tỷ giữa hai nước. Nguyên Lam xin đề nghị là chúng ta khởi sự từ nguyên ủy như ông đã trình bày nhiều lần trên diễn đàn này. Trước hết là về chuyện Bắc Kinh đã có chính sách trục lợi bất chính trong quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Năm 2000, Chính quyền Bill Clinton chấp thuận cho Trung Quốc được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm sau. Khi ấy, Quốc hội Mỹ bèn cho lập ra một Hội đồng Duyệt xét Quan hệ Kinh tế và An ninh Mỹ-Hoa để thường xuyên tường trình mọi sự lợi hại lên giới dân cử của Lập pháp thẩm định. Hội đồng “U.S.-China Economic and Security Review Commission” do các thành viên được lãnh đạo hai đảng bổ nhiệm và tuyển dụng các chuyên gia về an ninh, kinh tế và Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu và phúc trình của cơ quan độc lập này được niêm yết công khai, nhưng ít ai chịu tham khảo, kể cả báo chí!
Trong thực tế, Hoa Kỳ chưa áp dụng các biện pháp này. Nhưng Bắc Kinh lại nhanh tay ra đòn trước là sẽ không tuân thủ quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO mà tăng thuế nhập nội trên 128 mặt hàng của Mỹ. Chuyện nó rắc rối phức tạp chứ không đơn giản như truyền thông loan tải theo kiểu mỳ ăn liền!
-Nguyễn Xuân Nghĩa
- Tháng trước, Hội đồng có báo cáo về “Các khí cụ của chủ nghĩa kỹ thuật quốc gia của Trung Quốc”. Họ đi từ sách lược “Chế tạo tại Trung Quốc năm 2015” do Bắc Kinh đề ra trong “Kế hoạch Năm năm thứ 13, từ 2016 tới 2020” để ưu tiên phát triển 10 khu vực then chốt và nhắm vào các chiến lược toàn diện, trường kỳ hầu lập ra các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh nội địa và quốc tế. Điều đáng chú ý là 10 khí cụ được Bắc Kinh áp dụng để thực hiện chính sách của họ.
- Sau đó, trong phúc trình định kỳ và mới nhất, Hội đồng này cũng giải thích về Mục 301 của Đạo Luật Thương Mại 1974 mà Chính quyền Trump mới viện dẫn để đề nghị áp thuế. Nếu chịu khó tham khảo các tài liệu thuộc về bối cảnh phức tạp này thì chúng ta sẽ tỉnh táo hơn và bớt tin vào báo chí lười biếng.
Ăn của địch để đánh địch
Nguyên Lam: Nguyên Lam biết ông chịu khó tham khảo nhiều tài liệu khá chuyên môn để trình bày một cách dễ hiểu cho thính giả của chúng ta. Khi nói đến 10 khí cụ của nhà cầm quyền Trung Quốc nhằm thực hiện chính sách của họ, ông muốn nhấn mạnh đến điểm nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau Thế chiến II, các nước Đông Á như Nhật Bản rồi Nam Hàn hay Đài Loan, đều có chính sách công nghiệp hóa với lộ trình dàn trải trong vài chục năm để từng bước xây dựng được nền công nghiệp tiên tiến. Đó là điều hợp lý, nhưng đáng chú ý là hệ thống tư doanh sẽ phát triển chính sách đó với sự yểm trợ của nhà nước. Họ tương đối thành công, mà đôi khi bị nhược điểm là các tập đoàn kinh tế được nhà nước nâng đỡ lại nhũng lạm, như vụ Samsung của Nam Hàn, thậm chí khủng hoảng như ta đã thấy trong các năm 1997-1998.
- Đi sau và học theo các nước đó, Bắc Kinh cũng có sách lược công nghiệp hóa qua từng bước của một kế hoạch dài hạn. Nhưng lại có năm khác biệt. Thứ nhất là dân số đông và nhân công rẻ nên tăng trưởng thật nhanh trong 30 năm sau khi Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách. Thứ hai là chế độ độc đảng không dân chủ như các nước đi trước. Thứ ba là hệ thống quốc doanh vẫn giữ vị trí chủ đạo dù kém hiệu năng. Thứ tư là hệ thống kinh tế chính trị ấy có tinh thần chiến tranh và nhìn hợp tác kinh tế quốc tế với nhãn quan đấu tranh, qua khẩu hiệu quen thuộc là “ăn của địch để đánh địch”. Tức là đạo tắc về kinh doanh là điều không hề có. Sau cùng, với thế lực của xứ đông dân có sản lượng kinh tế hạng nhì thế giới, lãnh đạo xứ này ít coi trọng các quy tắc ứng xử thông thường của thiên hạ. Người nào còn mơ hồ thì xin nhớ đến dự án Cá Rồng Đỏ của Việt Nam. Bây giờ ta mới nói đến 10 khí cụ như 10 mũi khoan mậu dịch của Bắc Kinh.
Nguyên Lam: Nguyên Lam biết ông chịu khó tham khảo nhiều tài liệu khá chuyên môn để trình bày một cách dễ hiểu cho thính giả của chúng ta. Khi nói đến 10 khí cụ của nhà cầm quyền Trung Quốc nhằm thực hiện chính sách của họ, ông muốn nhấn mạnh đến điểm nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau Thế chiến II, các nước Đông Á như Nhật Bản rồi Nam Hàn hay Đài Loan, đều có chính sách công nghiệp hóa với lộ trình dàn trải trong vài chục năm để từng bước xây dựng được nền công nghiệp tiên tiến. Đó là điều hợp lý, nhưng đáng chú ý là hệ thống tư doanh sẽ phát triển chính sách đó với sự yểm trợ của nhà nước. Họ tương đối thành công, mà đôi khi bị nhược điểm là các tập đoàn kinh tế được nhà nước nâng đỡ lại nhũng lạm, như vụ Samsung của Nam Hàn, thậm chí khủng hoảng như ta đã thấy trong các năm 1997-1998.
- Đi sau và học theo các nước đó, Bắc Kinh cũng có sách lược công nghiệp hóa qua từng bước của một kế hoạch dài hạn. Nhưng lại có năm khác biệt. Thứ nhất là dân số đông và nhân công rẻ nên tăng trưởng thật nhanh trong 30 năm sau khi Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách. Thứ hai là chế độ độc đảng không dân chủ như các nước đi trước. Thứ ba là hệ thống quốc doanh vẫn giữ vị trí chủ đạo dù kém hiệu năng. Thứ tư là hệ thống kinh tế chính trị ấy có tinh thần chiến tranh và nhìn hợp tác kinh tế quốc tế với nhãn quan đấu tranh, qua khẩu hiệu quen thuộc là “ăn của địch để đánh địch”. Tức là đạo tắc về kinh doanh là điều không hề có. Sau cùng, với thế lực của xứ đông dân có sản lượng kinh tế hạng nhì thế giới, lãnh đạo xứ này ít coi trọng các quy tắc ứng xử thông thường của thiên hạ. Người nào còn mơ hồ thì xin nhớ đến dự án Cá Rồng Đỏ của Việt Nam. Bây giờ ta mới nói đến 10 khí cụ như 10 mũi khoan mậu dịch của Bắc Kinh.
10 khí cụ của Bắc Kinh
Nguyên Lam: Có lẽ chúng ta đã quen với cách tiếp cận vấn đề theo từng bước tiệm tiến của kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa. Bây giờ, xin đề nghị ông nói về 10 mũi khoan của Bắc Kinh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp khi tương tác với các nước khác, đặc biệt là Hoa Kỳ.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chiếm thị phần là bước đầu. Chính quyền Bắc Kinh đặt tiêu chí cụ thể cho việc chiếm lĩnh phần thị trường nội địa và ngoại quốc. Sau đó, nhà nước tài trợ dưới nhiều diện như quỹ đầu tư, trợ cấp, miễn thuế, cho vay với điều kiện ưu đãi không có trên thị trường tư doanh, trợ giá và đảm bảo xuất khẩu, v.v... Những thí dụ hay dẫn chứng thì có rất nhiều, không thể kể hết ở đây. Mũi khoan thứ ba là nhà nước chủ động tài trợ việc “nghiên cứu và phát triển” hay R&D, để mong bắt kịp Hoa Kỳ về các ngành công nghệ cao, nhất là tín học. Thứ tư là chế độ cung cấp để doanh nghiệp nội địa được ưu thế hơn nước ngoài khi cung cấp cho nhu cầu của các cơ quan trung ương và địa phương.
Khi Hoa Kỳ chưa áp dụng những biện pháp chế tài mà Bắc Kinh đã vội ra đòn cỏn con thì chúng ta trở lại với câu hỏi ban đầu là trong trận đấu này, ai sợ ai?
-Nguyễn Xuân Nghĩa
- Thứ năm và khá gian ngoan là đề ra các tiêu chuẩn riêng của mình để loại bỏ sự cạnh tranh của các doanh nghiệp ngoại quốc. Thứ sáu và tinh vi nhất là đặt ra các luật lớn và lệ nhỏ được bộ máy thư lại tự tiện suy diễn nhằm cản trở nước ngoài. Thứ bảy là viết ra các chính sách di động để hướng đầu tư nước ngoài vào các khu vực Bắc Kinh cho là chiến lược, khi thành công thì họ lại đổi chính sách! Thứ tám là chiêu dụ nhân tài trong đại học hay doanh giới của thiên hạ, như một chương trình được phát động từ năm 2008. Thứ chín là khích lệ doanh nghiệp trong các khu vực chiến lược của mình tung tiền đầu tư để thụ đắc tài sản, kiến năng và công nghệ của thiên hạ. Mũi khoan thứ 10 là tiến hành nghiệp vụ tình báo kỹ nghệ trong đại học, doanh nghiệp và cả cơ quan công quyền Hoa Kỳ, là điều hoàn toàn phi pháp mà vẫn được Bắc Kinh tiến hành, như một số phát giác được đài Á Châu Tự Do vừa nhắc tới.
Nguyên Lam: Nếu một cơ quan nghiên cứu độc lập của Quốc hội Mỹ báo cáo về sách lược dài hạn như vậy của Bắc Kinh thì có lẽ chúng ta hiểu vì sao Chính quyền Donald Trump mới viện dẫn luật lệ Hoa Kỳ để có biện pháp ứng phó. Ông nghĩ thế nào về cục diện này, liệu chiến tranh mậu dịch có xảy ra không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi cho là người dân Hoa Kỳ nói chung biết rất nhiều mà lại hiểu rất ít nên chẳng thấy ra vài ba sự thật. Đó là lãnh đạo Hoa Kỳ từ năm 1972 đã lầm tưởng rằng kinh tế thị trường hay trao đổi tự do sẽ thuần hóa chế độ độc tài và hợp tác kinh tế sẽ biến cải Trung Quốc thành cường quốc có tinh thần trách nhiệm. Sau đó, doanh lợi khiến các tập đoàn kinh tế Mỹ tìm lợi nhuận khi làm ăn với Trung Quốc mà quên dần yếu tố an ninh, nếu có bị bắt chẹt hay móc túi thì cũng nín thinh. Trong khi đó, từ đầu đến cuối, lãnh đạo Bắc Kinh không hề xao lãng mục tiêu trường kỳ là bằng mọi thủ đoạn bắt kịp và vượt qua Hoa Kỳ về mặt kinh tế, công nghệ và cả quân sự. Với Trung Quốc thì cả ba mặt ấy là một.
- Ông Donald Trump được thành phần thất thế của nước Mỹ bầu lên thì cũng chỉ mới mường tượng ra những bất lợi của Hoa Kỳ nhưng dần dần học bài thêm và ngoài phong thái ồn ào nhiều khi bộp chộp, ông thấy ra sự thể từ cả hai giác độ an ninh và kinh tế. Trong kho luật lệ về Thương mại của Hoa Kỳ, các mục 232 trong Đạo luật 1962 hay 301 trong Đạo luật 1974 đã có sẵn từ lâu mà ít khi được sử dụng. Ông Trump cho Nội các nghiên cứu sự thể từ Tháng Tư, Tháng Tám năm ngoái rồi theo thủ tục mà sẽ áp dụng sau này cho một trận chiến mậu dịch thật ra đã có từ xưa rồi khi Trung Quốc lặng lẽ tiến hành kế hoạch của họ.
Nguyên Lam: Câu hỏi cuối, thưa ông, rồi đây sự thể sẽ ra sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Từ một tháng trước rồi, khi thiên hạ tri hô về nguy cơ chiến tranh mậu dịch, tôi đã cố giải thích rằng ta cần đi xuống cái đáy của vấn đề. Thí dụ dễ nhớ là Trung Quốc đạt xuất siêu mấy trăm tỷ đô la với Hoa Kỳ, nên 3% Tổng sản lượng của họ tùy thuộc vào sức bán hàng cho Mỹ. Ngược lại, việc xuất khẩu của Hoa Kỳ vào thị trường Trung Quốc chỉ bằng nửa phần trăm của Tổng sản lượng thôi. Khi lên chiến hào để nã đạn mậu dịch vào nhau thì kinh tế Trung Quốc mới lâm thế yếu. Đó là thực lực của hai nền kinh tế. Chuyện khác nữa, khi lồng an ninh vào kinh tế, Hoa Kỳ cũng thấy nhiều bạn hàng của mình tại Bắc Mỹ, Âu Châu và Đông Á là các đồng minh chiến lược nên sẽ tìm ra giải pháp thỏa hiệp, là điều không có với Bắc Kinh. Khi Hoa Kỳ chưa áp dụng những biện pháp chế tài mà Bắc Kinh đã vội ra đòn cỏn con thì chúng ta trở lại với câu hỏi ban đầu là trong trận đấu này, ai sợ ai?
- Nhìn về lâu dài và vì Trung Quốc đang cố phát triển công nghệ tín học cao cấp, chúng ta sẽ còn có dịp theo dõi trận đánh kế tiếp, thí dụ như trong việc thi đua sản xuất thế hệ vô tuyến thứ năm hay G-5 thì sẽ biết thế nào là được thua.
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích kỳ này.
Nguyên Lam: Có lẽ chúng ta đã quen với cách tiếp cận vấn đề theo từng bước tiệm tiến của kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa. Bây giờ, xin đề nghị ông nói về 10 mũi khoan của Bắc Kinh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp khi tương tác với các nước khác, đặc biệt là Hoa Kỳ.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chiếm thị phần là bước đầu. Chính quyền Bắc Kinh đặt tiêu chí cụ thể cho việc chiếm lĩnh phần thị trường nội địa và ngoại quốc. Sau đó, nhà nước tài trợ dưới nhiều diện như quỹ đầu tư, trợ cấp, miễn thuế, cho vay với điều kiện ưu đãi không có trên thị trường tư doanh, trợ giá và đảm bảo xuất khẩu, v.v... Những thí dụ hay dẫn chứng thì có rất nhiều, không thể kể hết ở đây. Mũi khoan thứ ba là nhà nước chủ động tài trợ việc “nghiên cứu và phát triển” hay R&D, để mong bắt kịp Hoa Kỳ về các ngành công nghệ cao, nhất là tín học. Thứ tư là chế độ cung cấp để doanh nghiệp nội địa được ưu thế hơn nước ngoài khi cung cấp cho nhu cầu của các cơ quan trung ương và địa phương.
Khi Hoa Kỳ chưa áp dụng những biện pháp chế tài mà Bắc Kinh đã vội ra đòn cỏn con thì chúng ta trở lại với câu hỏi ban đầu là trong trận đấu này, ai sợ ai?
-Nguyễn Xuân Nghĩa
- Thứ năm và khá gian ngoan là đề ra các tiêu chuẩn riêng của mình để loại bỏ sự cạnh tranh của các doanh nghiệp ngoại quốc. Thứ sáu và tinh vi nhất là đặt ra các luật lớn và lệ nhỏ được bộ máy thư lại tự tiện suy diễn nhằm cản trở nước ngoài. Thứ bảy là viết ra các chính sách di động để hướng đầu tư nước ngoài vào các khu vực Bắc Kinh cho là chiến lược, khi thành công thì họ lại đổi chính sách! Thứ tám là chiêu dụ nhân tài trong đại học hay doanh giới của thiên hạ, như một chương trình được phát động từ năm 2008. Thứ chín là khích lệ doanh nghiệp trong các khu vực chiến lược của mình tung tiền đầu tư để thụ đắc tài sản, kiến năng và công nghệ của thiên hạ. Mũi khoan thứ 10 là tiến hành nghiệp vụ tình báo kỹ nghệ trong đại học, doanh nghiệp và cả cơ quan công quyền Hoa Kỳ, là điều hoàn toàn phi pháp mà vẫn được Bắc Kinh tiến hành, như một số phát giác được đài Á Châu Tự Do vừa nhắc tới.
Nguyên Lam: Nếu một cơ quan nghiên cứu độc lập của Quốc hội Mỹ báo cáo về sách lược dài hạn như vậy của Bắc Kinh thì có lẽ chúng ta hiểu vì sao Chính quyền Donald Trump mới viện dẫn luật lệ Hoa Kỳ để có biện pháp ứng phó. Ông nghĩ thế nào về cục diện này, liệu chiến tranh mậu dịch có xảy ra không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi cho là người dân Hoa Kỳ nói chung biết rất nhiều mà lại hiểu rất ít nên chẳng thấy ra vài ba sự thật. Đó là lãnh đạo Hoa Kỳ từ năm 1972 đã lầm tưởng rằng kinh tế thị trường hay trao đổi tự do sẽ thuần hóa chế độ độc tài và hợp tác kinh tế sẽ biến cải Trung Quốc thành cường quốc có tinh thần trách nhiệm. Sau đó, doanh lợi khiến các tập đoàn kinh tế Mỹ tìm lợi nhuận khi làm ăn với Trung Quốc mà quên dần yếu tố an ninh, nếu có bị bắt chẹt hay móc túi thì cũng nín thinh. Trong khi đó, từ đầu đến cuối, lãnh đạo Bắc Kinh không hề xao lãng mục tiêu trường kỳ là bằng mọi thủ đoạn bắt kịp và vượt qua Hoa Kỳ về mặt kinh tế, công nghệ và cả quân sự. Với Trung Quốc thì cả ba mặt ấy là một.
- Ông Donald Trump được thành phần thất thế của nước Mỹ bầu lên thì cũng chỉ mới mường tượng ra những bất lợi của Hoa Kỳ nhưng dần dần học bài thêm và ngoài phong thái ồn ào nhiều khi bộp chộp, ông thấy ra sự thể từ cả hai giác độ an ninh và kinh tế. Trong kho luật lệ về Thương mại của Hoa Kỳ, các mục 232 trong Đạo luật 1962 hay 301 trong Đạo luật 1974 đã có sẵn từ lâu mà ít khi được sử dụng. Ông Trump cho Nội các nghiên cứu sự thể từ Tháng Tư, Tháng Tám năm ngoái rồi theo thủ tục mà sẽ áp dụng sau này cho một trận chiến mậu dịch thật ra đã có từ xưa rồi khi Trung Quốc lặng lẽ tiến hành kế hoạch của họ.
Nguyên Lam: Câu hỏi cuối, thưa ông, rồi đây sự thể sẽ ra sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Từ một tháng trước rồi, khi thiên hạ tri hô về nguy cơ chiến tranh mậu dịch, tôi đã cố giải thích rằng ta cần đi xuống cái đáy của vấn đề. Thí dụ dễ nhớ là Trung Quốc đạt xuất siêu mấy trăm tỷ đô la với Hoa Kỳ, nên 3% Tổng sản lượng của họ tùy thuộc vào sức bán hàng cho Mỹ. Ngược lại, việc xuất khẩu của Hoa Kỳ vào thị trường Trung Quốc chỉ bằng nửa phần trăm của Tổng sản lượng thôi. Khi lên chiến hào để nã đạn mậu dịch vào nhau thì kinh tế Trung Quốc mới lâm thế yếu. Đó là thực lực của hai nền kinh tế. Chuyện khác nữa, khi lồng an ninh vào kinh tế, Hoa Kỳ cũng thấy nhiều bạn hàng của mình tại Bắc Mỹ, Âu Châu và Đông Á là các đồng minh chiến lược nên sẽ tìm ra giải pháp thỏa hiệp, là điều không có với Bắc Kinh. Khi Hoa Kỳ chưa áp dụng những biện pháp chế tài mà Bắc Kinh đã vội ra đòn cỏn con thì chúng ta trở lại với câu hỏi ban đầu là trong trận đấu này, ai sợ ai?
- Nhìn về lâu dài và vì Trung Quốc đang cố phát triển công nghệ tín học cao cấp, chúng ta sẽ còn có dịp theo dõi trận đánh kế tiếp, thí dụ như trong việc thi đua sản xuất thế hệ vô tuyến thứ năm hay G-5 thì sẽ biết thế nào là được thua.
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích kỳ này.
Mỹ đưa siêu tiêm kích tàng hình F-35C tới Nhật, đối phó với Trung – Triều?
Ngày đăng : 20:00 - 03/04/2018
Hải quân Mỹ có kế hoạch triển khai các siêu tiêm kích tàng hình F-35C tới Nhật Bản sau năm 2021 nhằm tăng khả năng đối phó với sự phát triển nhanh chóng của quân đội Trung Quốc cũng như các mối đe dọa quân sự từ Triều Tiên và Nga.
Theo tờ Yomiuri Shimbun, hải quân Mỹ sẽ điều động các máy bay chiến đấu tàng hình F-35C tới căn cứ không hải quân Iwakuni.
“Phi đội bay Carrier Air Wing 5 (CVW-5) sẽ tiếp nhận các chiến đấu cơ F-35C Lightning II sau năm 2021. Phi đội F-35C sẽ được triển khai tới căn cứ Iwakuni”, một quan chức hải quân Mỹ chia sẻ với Yomiuri Shimbun.
“Phi đội bay Carrier Air Wing 5 (CVW-5) sẽ tiếp nhận các chiến đấu cơ F-35C Lightning II sau năm 2021. Phi đội F-35C sẽ được triển khai tới căn cứ Iwakuni”, một quan chức hải quân Mỹ chia sẻ với Yomiuri Shimbun.
Mỹ đưa siêu tiêm kích tàng hình F-35C tới Nhật sau năm 2021 nhằm ngăn chặn các mối đe dọa từ Trung Quốc, Nga và Triều Tiên. |
Cụ thể, phi đội F-35C sẽ thay thế phi đội F/A-18E/F Super Hornets hiện đang đóng quân ở căn cứ không hải quân Atsugi nằm gần thủ đô Tokyo. Ngoài ra, hải quân Mỹ hiện còn có kế hoạch cắt giảm số lượng máy bay ở căn cứ Atsugi xuống còn 60 chiếc.
Hải quân Mỹ chọn điều động F-35C tới căn cứ Iwakuni do đây là căn hoạt động của các chiến đấu cơ F-35B thuộc lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ. Bên cạnh đó, việc đưa F-35C tới Iwakuni cũng sẽ giúp Mỹ không cần xây dựng thêm các cơ sở quân sự để phục vụ hoạt động của siêu tiêm kích này.
Theo kế hoạch, F-35C sẽ lần đầu tiên được triển khai hoạt động trên tàu sân bay USS Carl Vinson vào năm 2021.
Việc hải quân Mỹ chọn điều động siêu tiêm kích F-35C tới Nhật Bản sau năm 2021 được xem là thông tin không gây ngạc nhiên. Bởi Nhật Bản nằm gần Trung Quốc, Nga và Triều Tiên. Do đó, sự xuất hiện của F-35C được xem là phương pháp duy trì hòa bình ngăn chặn các mối đe dọa từ những quốc gia khác.
Trong trường hợp xảy ra chiến tranh, F-35C sẽ trở thành vũ khí tấn công sắc bén nhằm vào các mục tiêu hiện diện ở cả 3 quốc gia Trung Quốc, Nga và Triều Tiên.
Mỹ gợi ý Nga thay thế các nhà ngoại giao bị trục xuất
NGUYỄN TIẾN | 04/04/2018 20:41
Trụ sở Bộ Ngoại giao Mỹ tại Washington. (Ảnh: AP)
Quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết Nga có thể gửi các nhà ngoại giao mới để thay thế cho những nhà ngoại giao bị Washington trục xuất ngày 26/3.
Bộ Ngoại giao Mỹ cũng cho biết dù Washington trục xuất 48 nhà ngoại giao Nga đang làm việc tại Mỹ song Matxcơva không nhất thiết phải cắt giảm số lượng các nhà ngoại giao tại Mỹ.
“Chính phủ Nga vẫn hoàn toàn có quyền gửi yêu cầu công nhận các vị trí còn trống trong sứ mệnh ngoại giao”, quan chức của Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết và nhấn mạnh mỗi yêu cầu sẽ được xem xét riêng.
Quan chức này cho biết, ông hy vọng Matxcơva sẽ đáp lại động thái này của Washington bằng việc chấp nhận các nhà ngoại giao Mỹ mới tới thay thế cho những người bị trục xuất trong động thái đáp trả ngoại giao tương ứng của Nga.
“Nga chưa hề thông báo cho chúng tôi về ý định cắt giảm số lượng các nhân viên của chúng tôi được chấp nhận trong sứ mệnh ngoại giao”, quan chức của Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết.
Tuy nhiên, Matxcơva thực hiện việc cắt giảm số lượng các nhà ngoại giao Anh được phép công tác tại Nga trước đó.
Bộ Ngoại giao Mỹ cũng cho biết dù Washington trục xuất 48 nhà ngoại giao Nga đang làm việc tại Mỹ song Matxcơva không nhất thiết phải cắt giảm số lượng các nhà ngoại giao tại Mỹ.
“Chính phủ Nga vẫn hoàn toàn có quyền gửi yêu cầu công nhận các vị trí còn trống trong sứ mệnh ngoại giao”, quan chức của Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết và nhấn mạnh mỗi yêu cầu sẽ được xem xét riêng.
Quan chức này cho biết, ông hy vọng Matxcơva sẽ đáp lại động thái này của Washington bằng việc chấp nhận các nhà ngoại giao Mỹ mới tới thay thế cho những người bị trục xuất trong động thái đáp trả ngoại giao tương ứng của Nga.
“Nga chưa hề thông báo cho chúng tôi về ý định cắt giảm số lượng các nhân viên của chúng tôi được chấp nhận trong sứ mệnh ngoại giao”, quan chức của Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết.
Tuy nhiên, Matxcơva thực hiện việc cắt giảm số lượng các nhà ngoại giao Anh được phép công tác tại Nga trước đó.
Cuộc chiến ngoại giao Matxcơva - phương Tây: Dân Nga nhiệt liệt ủng hộ chính quyền ra sao?
Căng thẳng ngoại giao giữa phương Tây và Nga leo thang trong thời gian gần đây sau khi Mỹ, Canada, Australia và một số quốc gia châu Âu đồng loạt trục xuất các nhà ngoại giao Nga để hưởng ứng lời kêu gọi gây áp lực của Anh.
Nguyên nhân xuất phát từ việc London cáo buộc Matxcơva có liên quan đến vụ cựu điệp viên Sergey Skripal và con gái bị đầu độc tại Salisbury.
Mặc dù các chuyên gia Anh cho biết không thể khẳng định được chất độc có nguồn gốc từ Nga, song London vẫn tiếp tục cáo buộc Matxcơva có liên quan đến vụ việc này.
Căng thẳng ngoại giao giữa phương Tây và Nga leo thang trong thời gian gần đây sau khi Mỹ, Canada, Australia và một số quốc gia châu Âu đồng loạt trục xuất các nhà ngoại giao Nga để hưởng ứng lời kêu gọi gây áp lực của Anh.
Nguyên nhân xuất phát từ việc London cáo buộc Matxcơva có liên quan đến vụ cựu điệp viên Sergey Skripal và con gái bị đầu độc tại Salisbury.
Mặc dù các chuyên gia Anh cho biết không thể khẳng định được chất độc có nguồn gốc từ Nga, song London vẫn tiếp tục cáo buộc Matxcơva có liên quan đến vụ việc này.
Mỹ ngày càng hoang tưởng về mối đe dọa Nga?
Người Mỹ tố ngược rằng Nga tiếp tục là biểu tượng của sự hiếu chiến, triển khai ồ ạt quân đội dọc biên giới với các nước thành viên NATO.
Lại “mối đe dọa” Nga
Tờ The Hill của Mỹ mới đây dẫn lại lời của Thượng nghị sỹ John McCain hồi tháng 5/2017 nói rằng Tổng thống Nga Vladimir Putin là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với Mỹ, hơn cả tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng.
Ông McCain cho rằng IS đã làm những điều kinh khủng, nhưng người Nga mới là thủ phạm phá hủy nền tảng dân chủ của Mỹ, qua đó làm thay đổi kết quả của cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016.
Theo The Hill, trong khi nhiều người bỏ quên mối đe dọa từ Nga thì những lời nói của ông McCain vẫn còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay. Trong lúc Nga liên tục gây ra mối đe dọa, việc Mỹ chỉ phản ứng bằng cách trả đũa ngoại giao sẽ chỉ tiếp thêm sức mạnh cho Tổng thống Putin.
Cáo buộc Nga can thiệp bầu cử, người Mỹ đã mất lòng tin vào chính vị Tổng thống của mình? |
Tờ báo Mỹ cáo buộc nhà lãnh đạo Nga đã can thiệp “một cách thô bạo” vào Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ, ủng hộ cái được gọi là “các chế độ tàn bạo” trên thế giới và biến nước Nga trở thành mối uy hiếp ở cấp độ toàn cầu cũng như khu vực.
Để làm rõ hơn mối đe dọa Nga, The Hill dẫn khẳng định của công tố viên đặc biệt thuộc Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) Robert Mueller và nhiều chuyên gia tình báo Mỹ tiếp tục cáo buộc Nga đã can thiệp vào cuộc bầu cử năm 2016.
Theo đó, Cơ quan Nghiên cứu Internet, tổ chức do một nhân vật có quan hệ mật thiết với Điện Kremlin tài trợ, đã thành lập một đội tung tin giả, xâm nhập các hệ thống thanh toán ngân hàng, giả mạo các thông tin nhận diện để gây ra một sự chia rẽ rộng lớn trong nước Mỹ và chuyển các phiếu bầu từ Hillary Clinton sang Donald Trump trong cuộc bầu cử năm 2016.
Các nhân viên tình báo Mỹ cho rằng Nga sẽ tiếp tục can thiệp vào cuộc bầu cử năm 2018 của Mỹ. Giám đốc Tình báo Quốc gia Mỹ Dan Coats nhận định: "Chúng tôi dự báo Nga sẽ tiếp tục sử dụng biện pháp tuyên truyền, mạng xã hội, thông tin cá nhân giả mạo, dùng những ngôn ngữ đồng cảm và các biện pháp gây ảnh hưởng khác để cố gắng khoét sâu những kẽ hở chính trị và xã hội của nước Mỹ".
Để gia tăng “sự nguy hiểm” của Nga, The Hill cảnh báo thêm các cuộc tấn công sẽ không chỉ giới hạn bên trong nước Mỹ mà còn nhằm tới cả Châu Âu.
Mỹ vẫn chưa thể "nuốt trôi" thành công của Nga ở Syria |
Tờ báo dẫn các đánh giá cho rằng Nga sẽ tìm cách hỗ trợ tài chính cho các chính trị gia có quan điểm cực đoan, xâm nhập trái phép các hệ thống máy tính, tổ chức tuần hành, biểu tình và lan tràn các lời dối trá trên mạng xã hội.
Ngoài ra, tờ báo Mỹ cũng tỏ rõ sự “cay cú” khi “tiên đoán” rằng Nga vẫn sẽ ủng hộ một số nhà lãnh đạo như Tổng thống Syria Bashar al-Assad và nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un. Đương nhiên, tờ báo này sử dụng từ ngữ không được “thân thiện” khi gán ghép cái gọi là độc tài.
Bằng chứng được The Hill nêu ra là tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Nga đã phong tỏa 11 nghị quyết trừng phạt liên quan tới Syria.
Tờ báo cũng dẫn lại phát biểu của Tổng thống Trump hồi tháng 1 vừa qua rằng: "Khi Trung Quốc đang giúp Mỹ giải quyết vấn đề Triều Tiên thì Nga lại làm điều đó phức tạp hơn... Có vẻ như cái mà Trung Quốc lấy về lại là điều mà Nga cho đi".
Lời tố ngược
Đáng chú ý hơn, The Hill nêu ra vấn đề mà tờ báo này coi là “gây lo ngại hơn” là các hành động được gán hai chữ “hiếu chiến” cho Nga ở Đông Âu?!
Theo đó, quân đội Nga đã can dự trực tiếp vào vấn đề Gruzia, hậu thuẫn Nam Ossetia và Abkhazia giành quyền "độc lập", trong khi tại Ukraine, những quân nhân được ngụy trang đã giúp Nga sáp nhập Crimea.
Tờ báo Mỹ tỏ rõ sự “lo ngại” về những hành động nêu trên của Nga, đồng thời dẫn lời một ông giáo sư nghỉ hưu là Stephen Blank gọi những hành động của Nga liên quan tới Ukraine là "sự hiếu chiến” nhất ở châu Âu từ sau Thế chiến II.
Không những thế, The Hill còn tố ngược rằng Nga tiếp tục là biểu tượng của sự hiếu chiến, triển khai ồ ạt quân đội dọc biên giới với các nước thành viên Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) gồm Estonia, Latvia và Lithuania, đồng thời tổ chức các cuộc diễn tập quân sự quy mô lớn, gây lo ngại về một cuộc xung đột mới ở khu vực!
Đề cập tới tuyên bố của Tổng thống Putin về việc nước Nga đã phát triển thành công các loại vũ khí mới, không thể bị đánh chặn bởi các hệ thống phòng thủ của Mỹ, The Hill cho rằng nhà lãnh đạo Nga đang làm tình hình trở nên phức tạp hơn.
Từ những lập luận trên, The Hill khẳng định, Nga là một mối đe dọa và Mỹ chưa được chuẩn bị cho điều đó. Do vậy, Mỹ và đồng minh phải thừa nhận điều này và hợp tác để kiềm chế các hành động mà The Hill cọi là “hiếu chiến” của Nga.
Đoàn xe tăng và bọc thép Mỹ "diễu hành" tại Narva, Estonia, cách biên giới Nga chỉ 300m |
Việc Tổng thống Trump mới đây bổ nhiệm ông John Bolton làm Cố vấn An ninh Quốc gia được The Hill tỏ ý hoan nghênh,coi đây là nỗ lực trong việc chống lại mối đe dọa ngày càng tăng từ Nga bởi ông Bolton có cách tiếp cận cứng rắn với Nga.
Gần đây nhất tại hội nghị thượng đỉnh G-20 năm ngoái, ông Bolton nhận định: "Ông Trump đã có kinh nghiệm qua cuộc gặp trực tiếp với ông Putin…Đối với vấn đề can thiệp bầu cử, phổ biến vũ khí hạt nhân, kiểm soát vũ khí hay Trung Đông, thương lượng với Nga là sự liều lĩnh".
Việc bổ nhiệm ông Bolton được The Hill đánh giá là đem đến hy vọng rằng Tổng thống Trump và NATO sẽ có biện pháp mạnh mẽ chống lại Nga, ngăn chặn ảnh hưởng của Nga trên toàn cầu.
Bài viết của The Hill cho thấy chính người Mỹ, hay đúng hơn trong trường hợp này là các nhà phân tích và báo chí Mỹ, vẫn rất nặng tư duy Chiến tranh Lạnh trong đánh giá mối quan hệ với Nga.
Những cáo buộc trên nhằm vào Nga nếu được chứng minh là đúng thì nước Mỹ trên thực tế còn “xuất sắc” hơn nhiều.
Mỹ đưa hệ thống tên lửa mang danh phòng thủ tới gần Nga làm gì khi vẫn cao giọng nói rằng để chống mối đe dọa từ tận Triều Tiên và Iran?
NATO đưa vũ khí và binh sĩ ồ ạt áp sát biên giới Nga liệu có phải mối đe dọa? Có cần phải nhắc lại cho người Mỹ nhớ rằng trong lịch sử, NATO chưa bao giờ “phòng thủ” mà chỉ có đi tấn công các nước khác!
NATO đã ồ ạt ném bom Libya năm 2011 |
Nga can thiệp bầu cử Mỹ bằng mạng xã hội và truyền thông với những thông tin “giả mạo”, vậy bằng chứng đâu, điều tra mãi vẫn chưa thấy công bố? Liệu nước Mỹ có hoàn toàn “trong sạch” và chưa từng can thiệp, chưa nói đến can thiệp “thô bạo”, vào các cuộc bầu cử trên thế giới?
Những trang mạng xã hội nổi tiếng nhất như Facebook hay Twitter đâu phải do người Nga sáng tạo ra? Những trang này có “vô can” trong làn sóng bất ổn và bạo lực chính trị tràn lan khắp Trung Đông và Bắc Phi, vốn được phương Tây đặt cho một cái tên mỹ miều là “Mùa xuân Arab”?
Nga tung tin “giả mạo” liệu có giật gân bằng thông tin về chương trình vũ khí hủy diệt hàng loạt của Iraq hay Libya do phương Tây công bố?
Một Saudi Arabia là đồng minh thân cận bậc nhất của Mỹ ở Trung Đông có vận hành theo các tiêu chuẩn được coi là “dân chủ” của Mỹ và phương Tây hay không?
Còn rất nhiều câu hỏi khác mà người Mỹ không muốn nghe hoặc không thể trả lời một cách trung thực. Những cáo buộc mà tờ The Hill nêu ra đối với Nga có lẽ chỉ cần thay bằng từ Mỹ hẳn cũng rất hợp lý.
- Đông Triều
Nga không ngăn được Mỹ cắm rễ hiểm tại Nam Caucasus?
Mỹ thể hiện là đồng minh tiềm tàng nhưng rất mạnh mẽ của Armenia và từng bước đối trọng với Nga - đồng minh chiến lược của Armenia...
Hồi tháng 5/2017, khi tình báo Mỹ nhận định xung đột giữa Armenia và Azerbaijan xoay quanh xung vấn đề tranh chấp tại khu vực Nagorno-Karabakh có thể gia tăng, đó được xem như một sự mở lối cho Mỹ xâm nhập sâu hơn vào Nam Caucasus.
Khi Mỹ tham gia cuộc tập trận “Noble Partner 2017 - Đối tác cao quý 2017” cùng với Gruzia thì dư luận lại hoài nghi tình báo Mỹ chỉ làm động tác giả, khiến Moscow tập trung vào Azerbaijan và Armenia, còn Mỹ sẽ đâm Nga tại mạng sườn Gruzia.
Tuy nhiên, với thực tế diễn ra cho thấy đúng là nhận định của tính báo Mỹ là một sự mở lối cho hành động của Washington và đây mới là tâm chiến lược của Mỹ tại Nam Caucassus - sân sau chiến lược của Nga.
Nam Caucasus đã bắt đầu dậy sóng? |
Mỹ quyết nâng tầm ảnh hưởng với Armenia – đồng minh chiến lược của Nga
Sau khi nhận diện quan hệ giữa Moscow và Yerevan ngày càng có nhiều sự lệch pha, Washington đã nhanh chóng có những điều chỉnh chiến lược của mình tại Nam Caucasus, mà trọng tâm được cho là tìm cách kéo Armenia về gần trục lợi ích Mỹ.
Mỹ đã tiến hành viện trợ tài chính cho ngân sách của chính quyền Armenia, đồng thời nhanh chóng thực hiện các kế hoạch hợp tác-đầu tư thiết thực, nhằm giúp tìm cách tháo gỡ khó khăn cho kinh tế Armenia - vá những lỗ hổng của Nga tại đây.
Khi tương tác ở cấp độ nhà nước diễn ra thuận lợi, và đặc biệt là khi Tổng thống Putin tái cử nhiệm 4, rồi nhanh chóng có những hiệu chỉnh trong quan hệ với Armenia, Mỹ đã có những nước đi nhằm cắm rễ tại sân sau chiến lược của Nga.
Hành động cắm rễ của Mỹ tại Nam Caucasus được thể hiện qua việc tìm cách nâng cao vị thế của người Armenia so với các tộc người khác, đồng thời nâng tầm ảnh hưởng của nhà nước Armenia trong khu vực.
Ngày 30/3 vừa qua, một phái đoàn các Nghị sĩ Mỹ - chủ yếu nằm trong thành phần ủng hộ Armenia tại Quốc hội Mỹ - đã đến thăm khu vực Nagorno-Karabakh và gần như ngay lập tức đã có hành động.
Sau khi vội vã trở vể Washington, 37 Nghị sĩ đã kêu gọi giúp đỡ Armenia khoảng 60 triệu USD và gửi thêm 10 triệu USD cho chính quyền Armenia, để Yerevan tạo điều kiện cho Mỹ được cử quan chức đến giám sát ngừng bắn tại Nagorno-Karabakh.
Điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Mỹ, Nghị sĩ Brad Sherman đã lên tiếng : "Quý vị biết rằng Armenia bị Thổ Nhĩ Kỳ và Azerbaijan phong tỏa, vì vậy nước này xứng đáng với sự ủng hộ của chúng ta".
Nhà lập pháp Mỹ còn nhấn mạnh: "Quý vị biết rằng Nagorno- Karabakh, bây giờ là Cộng hoà Artsakh và khu vực phía nam Gruzia, được gọi là Samtskhe-Javakheti, cũng xứng đáng được hỗ trợ của chúng ta", theo ArmenPress.
Nghị sĩ Brad Sherman kêu gọi ủng hộ ly khai tại Nam Caucasus |
Nếu việc Mỹ ủng hộ Cộng hoà Artsakh có thể hiểu được, thì việc Nghị sĩ Sherman nói Mỹ ủng hộ Samtskhe-Javakheti đã khiến Armenia bất ngờ, như lời ông Arnold Stepanyan, người đứng đầu Chương trình Sáng kiến Đa quốc gia Gruzia.
Song vấn đề ở chỗ người Armenia chiếm 45% dân cư Samtskhe-Javakheti, trong khi đó tại Cộng hoà Artsakh - người Armenia chiếm đa số.
Như vậy có sự tương đồng giữa Artsakh và Samtskhe-Javakheti về địa chính trị, dù khác nhau về địa chiến lược.
Theo ông Stepanyan, khi ủng hộ người Armenia ở Samtskhe-Javakheti, Mỹ đã chủ động tạo ra một khu vực xung đột mới tại Nam Caucasus giữa Armenia với Gruzia, bên cạnh xung đột giữa Armenia với Azerbaijan tại khu vực Nagorno- Karabakh.
Rõ ràng, với bước đi mới - thổi bùng ngọn lửa ly khai tại Samtskhe-Javakheti - Mỹ đã giúp nâng tầm cho nhà nước Armenia, nâng cao địa vị chính trị cho cộng đồng người Armenia trong khu vực Nam Caucasus - điều mà Nga không thể làm được.
Có thể thấy rằng, Washington đã thể hiện ra là một đồng minh tiếm tàng nhưng rất mạnh mẽ của Yerevan và từng bước thể hiện sự đối trong với Moscow - đồng minh chiến lược của Yerevan - tại sân sau chiến lược của Nga.
Mỹ từng bước tước bỏ lợi ích của Thổ Nhĩ Kỳ, Azerbaijan khi có dấu hiệu thân Nga
Thổ Nhĩ Kỳ và Azerbaijan là đồng minh chiến lược của nhau và là những thế lực có lợi to lớn gắn liền với những chuyển động tại Nam Caucasus, trong đó đặc biệt là cuộc xung đột tại Nagorno- Karabakh.
Khi Liên Xô tan rã, Thổ Nhĩ Kỳ gần như được Mỹ và NATO uỷ quyền đại diện lợi ích tại Nam Caucasus.
Vì vậy, trong suốt 1/4 thế kỷ của thời hậu Chiến tranh Lạnh, Mỹ và NATO không có sự can thiệp cụ thể nào vào khu vực chiến lược này.
Tuy nhiên, từ giữa năm 2016, sau khi Tổng thống Erdogan chủ động gửi thư xin lỗi Tổng thống Putin về "cuộc khủng hoảng 17 giây", Ankara đã nhanh chóng "chạy lại" với Moscow làm cho Washington và Brussels phải nóng mặt.
Sự thân thân thiết của bộ đôi Putin - Erdogan là lời cảnh báo cho nguy cơ lợi ích Mỹ có thể bị đồng minh và đối thủ chia nhau, từ đó khiến chiến lược của Mỹ tại Nam Caucasus thời hậu Xô Viết có thể bị phá sản.
Sự thân thiện của bộ đôi Putin - Erdogan là Washington nóng mắt |
Vì vậy, Washington phải nhanh chóng có những nước đi để có thể ngăn chặn những nguy hại cho lợi ích Mỹ tại sân sau chiến lược của Nga, mà được gây ra bởi sự xích lại gần nhau giữa Moscow và Ankara.
Thổ Nhĩ Kỳ vốn không có quan hệ ngoại giao với Armenia, trong khi Nga là đồng minh chiến lược của Armenia và đây là sự lệch pha giữa Ankara với Moscow tại Nam Caucasus. Dường như Washington đã chọn tấn công vào mắt xích này.
Khi Mỹ tăng cường ủng hộ Armenia thì vừa kéo Yerevan khỏi Moscow, cũng đồing thời vừa đẩy Yerevan ra xa hơn Ankara và cả Baku nữa - đối trọng với Yerevan tại Nam Caucasus và cũng ngày càng chịu tầm ảnh hưởng của Moscow.
Khu vực Samtskhe-Javakheti nằm trong lãnh thổ Gruzia, giáp với Thổ Nhĩ Kỳ và Armenia, khi Washington ủng hộ người Armenia tại khu vực này thì rõ ràng ngọn lửa ly khai sẽ không để Ankara được yên, nhất là khi Yerevan được chắp thêm cánh.
Thế là khi Washington chyển trọng tâm chiến lược tại Nam Caucasus về Yerevan và cộng đồng người Armenia trong khu vực, thì cả Moscow, Ankara và Baku đều phải đối mặt với những xung đột mới từ làn sóng ly khai.
Tuy nhiên, Moscow là đối thủ, còn Ankara và Baku có những lệch pha Mỹ nên Washington phải hiệu chỉnh chiến lược là dễ hiểu, nhưng Gruzia luôn tỏ ra đồng điệu với Mỹ, sao Washington lại "cạn tàu ráo máng" với Tbilisi như vậy?
Gruzia buộc phải hy sinh lợi ích cho mưu đồ Mỹ |
Samtskhe-Javakheti là khu vực lớn nhất và có ý nghĩa địa chính trị quan trọng bậc nhất với Gruzia, trong khi Tbilisi vẫn còn đau đớn với việc ly khai của Abkhazia và Nam Ossetia, vậy mà Washington vẫn buộc Tbilisi đối mặt với làn sóng ly lkhai mới.
Theo ông Stepanyan Mỹ muốn gia tăng bất ổn tại Nam Caucasus, từ đó định dạng lại lợi ích riêng của họ và Washington sẽ tận dụng mọi cơ hội để kích hoạt ly khai - cách gia tăng xung đột dễ dàng nhất, nên Tbilisi phải hy sinh lợi ích cho mưu đồ Mỹ.
Như vậy, Washington ngày càng cho thấy sự thách thức với Moscow tại sân sau chiến lược của Nga, dư luận đặt câu hỏi: Liệu lần này Tổng thống Putin có hoá giải được mưu đồ Mỹ? Xin phép được trở lại vấn đề này ở kỳ sau.
Ngọc Việt
Tổng thống Trump và Lầu Năm Góc không nhìn một hướng ở Syria?
Trong khi Tổng thống Trump nói sẽ sớm rút quân khỏi Syria thì Lầu Năm Góc lại công bố kế hoạch gửi thêm lính tới quốc gia Trung Đông này.
>> Tổng thống Trump: Mỹ sẽ sớm rút khỏi "chảo lửa" Syria
Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược
Nhà Trắng đã ra lệnh cho Bộ Ngoại giao Mỹ “đóng băng” khoản viện trợ 200 triệu USD cho Syria, đồng thời để ngỏ khả năng rút quân khỏi quốc gia Trung Đông này. Khoản viện trợ nói trên từng được cựu Ngoại trưởng Rex Tillerson hứa hẹn khi tham gia hội nghị bàn về các khoản tái thiết Syria được tổ chức ở Kuwait.
Tổng thống Mỹ Donald Trump để ngỏ khả năng rút quân "rất sớm" khỏi Syria. Ảnh: ky3.
Theo đó, số tiền Mỹ bỏ ra sẽ được dành để hỗ trợ các dự án cơ sở hạ tầng ở những khu vực do lực lượng nổi dậy được Mỹ hậu thuẫn kiểm soát ở Syria. Việc đóng băng khoản viện trợ này có thể sẽ khiến Tổng thống Mỹ Donald Trump rơi vào thế đối đầu với các quan chức quân đội Mỹ - những người đã nói rằng cuộc chiến chống IS vẫn chưa hoàn thành.
Quyết định ngừng viện trợ cho Syria được đưa ra chỉ vài tháng sau khi Tổng thống Trump đồng ý với chiến lược của ông Tillerson, bao gồm kế hoạch dài hạn để quét sạch IS và tiếp tục các nỗ lực ngoại giao nhằm chấm dứt xung đột tại Syria.
Tuyên bố của Nhà Trắng hoàn toàn trái ngược với những gì mà Lầu Năm Góc đưa ra vào cùng thời điểm. CNN dẫn nguồn tin từ một số quan chức quốc phòng và an ninh Mỹ cho biết, quân đội nước này có kế hoạch cử hàng chục binh sĩ tăng cường cho chiến trường ở miền bắc Syria.
Các quan chức cho biết, kế hoạch này đã được thảo luận trong nhiều ngày và lần đầu tiên được xem xét trước khi Tổng thống Donald Trump đưa ra tuyên bố rằng Mỹ “dường như sẽ rất sớm rút khỏi Syria”.
Việc “đóng băng” viện trợ cũng như hiện trạng chiến dịch chống tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) sẽ được thảo luận tại cuộc họp Hội đồng An ninh Quốc gia vào tuần tới.
Hệ lụy của việc Mỹ rút quân khỏi Syria
Theo ước tính của Lầu Năm Góc, IS đã mất 98% lãnh thổ chúng kiểm soát ở Iraq và Syria nhưng ông Richard Engel - phóng viên của MSNBC vừa trở về từ Syria cho rằng, giới chức quân sự của Mỹ vẫn quan tâm hơn đến những ý kiến đi ngược với tuyên bố của Tổng thống Trump. Họ cho rằng, việc rút gần 2.000 lính Mỹ sẽ là quá sớm bởi Lực lượng Dân chủ Syria của người Kurd chưa thể đảm nhận vai trò đầu tàu.
“Đây là thời điểm rất nhạy cảm khi Mỹ có thể nhìn thấy con đường kết thúc, và nếu chúng ta rút đi sớm, IS sẽ trở lại đây và đối tác này [lực lượng người Kurd được Mỹ hậu thuẫn ở Syria-ND] sẽ phải chiến đấu chống lại lực lượng của Thổ Nhĩ Kỳ chứ không phải kẻ thù chung của chúng ta”, Engel nhận định.
Rõ ràng, Mỹ vẫn đang bị kẹt giữa xung đột giữa hai đồng minh là người Kurd và Thổ Nhĩ Kỳ trong khi phải cân nhắc nhu cầu duy trì hiện diện quân sự ở Syria nhằm ngăn chặn những mầm mống của IS sinh sôi, nảy nở trở lại.
“Rời khỏi Syria sẽ là quyết định tồi tệ nhất mà Tổng thống có thể làm”, Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa Lindsey Graham phát biểu trên tờ Fox News Sunday. “Tôi đã chứng kiến điều này trước đây khi ông Obama làm điều tương tự ở Iraq”.
Trong khi đó, ông Engel tin rằng cả ở Iraq và Afghanistan, quân đội Mỹ rút lui sớm và sau đó sẽ buộc phải quay trở lại. Đặc biệt tại Iraq, việc Mỹ rút quân đã mở ra một khoảng trống cho IS xâm nhập trở lại.
“Nó giống như một khối u di căn”, Engel nói. “Nếu bạn chỉ để lại phần nào đó trong cơ thể, nó sẽ trở lại và lan rộng. Khi ấy, tất cả kết quả đạt được sau những khó khăn, vất vả mà bạn phải đánh đổi bằng cả sự hy sinh, đau khổ sẽ đổ ra sông ra biển”.
Bộ Ngoại giao Mỹ trong một tuyên bố cho biết, tình hình ở Syria đang được xem xét liên tục và các cơ quan hữu quan đang tiếp tục làm việc với các đối tác trên thực địa để ổn định tình hình ở những khu vực dễ bị tổn thương nhất.
“Mỹ đang làm việc hàng ngày với các đối tác trên thực địa và với cộng đồng quốc tế để giúp ổn định tình hình các khu vực đã được giải phóng khỏi IS và xác định cách thức tiếp theo để tái thiết Syria một khi đã có tiến trình chuyển đổi chính trị ôn hòa từ Tổng thống Syria Bashar Al-Assad”, tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ nêu rõ.
Tuy nhiên, các quan chức quân đội Mỹ nói rằng tuyên bố của Tổng thống “rất sớm” rút khỏi Syria có thể là quá lạc quan. Các cố vấn quân sự Mỹ đã nói với tờ NPR hồi tháng 2 năm nay rằng, sẽ phải mất ít nhất từ 2-6 tháng nữa để có thể đánh bại IS và thêm 1 năm nữa để ổn định các khu vực được giải phóng thông qua viện trợ nhân đạo.
Theo Hùng Cường
Chiến trường Syria: Mỹ ra, Pháp vào đều ảo tưởng như nhau
Cả Mỹ và Pháp đều muốn tăng cường vị thế của mình tại Syria. Tuy nhiên sẽ khó có khả năng họ sẽ thành công trong tương lai gần.
Theo giới phân tích, Mỹ và Pháp đang tìm cách cải thiện quan hệ với Thổ Nhĩ Kỳ sau khi niềm tin của Ankara đối với Mỹ bị hủy hoại nghiêm trọng.
Những tuyên bố khó thực hiện
Nhà phân tích Thổ Nhĩ Kỳ cho rằng, sẽ khó có khả năng Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ sớm rút khỏi Syria trong tương lai gần, trong khi cam kết của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron về việc làm trung gian hòa giải giữa Ankara và người Kurd cũng chỉ là “suy nghĩ xa vời”.
Tổng thống Mỹ Donald Trump (trái) và Tổng thống Pháp Emmanuel Macron. Ảnh: Reuters
“Chỉ hơn 2 tuần trước, Tổng thống Mỹ Donald Trump nói rằng, việc người tiền nhiệm Barack Obama quyết định rút quân khỏi Iraq là một sai lầm và rằng ông sẽ không làm điều tương tự ở Syria”, ông Baris Doster, nhà khoa học chính trị tại Đại học Marmara của Thổ Nhĩ Kỳ cho biết.
Theo ông Doster, Mỹ đã hỗ trợ khá nhiều cũng như cung cấp không ít vũ khí cho các đơn vị bảo vệ người Kurd và Liên minh dân chủ người Kurd, các đơn vị dường như được Mỹ coi là lực lượng mặt đất của mình tại Syria. Bên cạnh đó, có ít nhất 20 căn cứ Mỹ trên lãnh thổ Syria. Với việc đầu tư lớn như vậy, Mỹ cũng không dễ dàng gì rời khỏi Syria.
Ngày 29/3, Tổng thống Trump bất ngờ tuyên bố Mỹ sẽ sớm rút khỏi Syria và “nhường” chiến trường này lại cho người khác. Bất ngờ hơn là ngay sau đó, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron tuyên bố ủng hộ Lực lượng Dân chủ Syria (SDF), gửi thêm quân tới khu vực Trung Đông và tạo điều kiện đàm phán giữa Ankara và các phiến quân người Kurd.
Điều đáng nói là Thổ Nhĩ Kỳ lâu nay vốn coi SDF có liên hệ với đảng Công nhân người Kurd (PKK) – tổ chức bị Ankara liệt vào danh sách khủng bố.
Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Tayip Erdogan khi đề cập tới cuộc gặp giữa Tổng thống Pháp Macron với một phái đoàn SDF ngày 29/3 đã nói rằng: “Tiếp đón các thành viên của một tổ chức khủng bố chẳng có gì khác ngoài sự thù địch với Thổ Nhĩ Kỳ”.
Nói về tuyên bố của Tổng thống Pháp Macron, ông Doster cho rằng, cần phải nhìn vào lợi ích lâu dài của Pháp ở Trung Đông. Pháp lâu nay vẫn muốn tìm cách gia tăng ảnh hưởng ở Trung Đông, nhưng đã không mấy thành công, trong đó có nỗ lực hòa giải xung đột giữa Palestine và Israel. Ảnh hưởng của Pháp trong vấn đề Syria cũng không mang quá nhiều dấu ấn nổi bật.
“Nếu xem xét về vị thế và ảnh hưởng của Pháp cũng như các mối quan hệ với khu vực Trung Đông, đặc biệt là với Syria, thì có thể nói rằng, Pháp đang muốn gia tăng vai trò của mình ở Syria, khi đã tận dụng tuyên bố bất ngờ của Tổng thống Mỹ Donald Trump về việc Washington sẽ sớm rút khỏi Syria”, ông Doster nói.
Níu giữ đồng minh quay lưng?
Theo nhà phân tích các vấn đề Trung Đông Bora Bayraktar, chiến dịch Afrin (Syria) của Thổ Nhĩ Kỳ như một đòn giáng mạnh vào Mỹ khi Washington muốn củng cố vị thế của mình trong khu vực với sự trợ giúp của SDF.
Bên cạnh đó, Thổ Nhĩ Kỳ, một đồng minh trong NATO của cả Mỹ và Pháp, lại có mối quan hệ gần gũi với Nga và Iran trong khuôn khổ các cuộc đàm phán Astana và Sochi về giải pháp cho cuộc khủng hoảng Syria.
Những yếu tố này khiến Mỹ “phải tìm kiếm các công cụ mới”. Thất bại trong việc đạt được mục đích bằng cách gây áp lực với Thổ Nhĩ Kỳ, các nước phương Tây giờ lại quay sang muốn đối thoại với Ankara.
Theo ông Bayraktar, do niềm tin của Thổ Nhĩ Kỳ đối với Mỹ đã bị phá hủy nghiêm trọng, Washington có thể đang tìm cách thu hẹp khoảng cách với Ankara thông qua Pháp.
Ông cho rằng, vấn đề Thổ Nhĩ Kỳ có thể đã được thảo luận trong cuộc điện đàm giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Tổng thống Pháp Emmanuel Macron ngày 27/3. “Tuy nhiên, rõ ràng là những sáng kiến như trung gian hòa giải giữa người Kurd và Ankara sẽ không thể nhận được sự ủng hộ của Thổ Nhĩ Kỳ và cơ hội thực hiện gần như bằng không”.
Ông Bayraktar cũng cho rằng, khó có khả năng Mỹ sẽ sớm rời khỏi Syria và Pháp sẽ gửi thêm quân tới đây. “Những bước đi đó đòi hỏi những khoản chi phí đảng kể, trong khi hậu quả của nó là không thể đoán trước được”. Theo ông, cần phải nhìn vào bức tranh tổng quan khi nhắc đến kế hoạch của Mỹ về tăng cường sự hiện diện ở Iraq.
Còn đối với Pháp, Pháp là nước hứng chịu nhiều vụ tấn công khủng bố đẫm máu liên quan tới IS. Sẽ càng khó có chuyện Pháp sẽ can thiệp vào Syria, bởi như vậy chẳng khác gì tạo điều kiện một cách gián tiếp cho những tư tưởng cực đoan giữa những người nhập cư tại Pháp. Theo ông, tuyên bố của ông Macron không gì khác ngoài đánh lạc hướng dư luận khỏi các cuộc biểu tình của các công đoàn thương mại tại Pháp.
Theo Thùy Linh
Lần đầu tiên sau hơn 40 năm, lính thủy đánh bộ Mỹ có súng bắn tỉa mới
Ngày đăng : 15:17 - 04/04/2018
Lực lượng Thủy quân Lục chiến Mỹ có dự định đưa vào sử dụng súng trường bắn tỉa Mk 13 Mod 7 mới cho các binh lính có nhiệm vụ trinh sát, qua đó thay thế khẩu M40 mà lực lượng này đã dùng kể từ thời Chiến tranh Việt Nam.
Theo trang tin Business Insider, kể từ khi Mỹ bắt đầu cuộc chiến chống khủng bố vào năm 2001, tầm bắn 900m của súng M40 đã bắt đầu cho thấy những giới hạn của mình khi binh lính Mỹ đối đầu với các phần tử khủng bố lẩn trốn trên các vùng đồi núi và sa mạc ở Iraq.
Tuy nhiên tạp chí Marine Corp Times của Mỹ khẳng định rằng, khẩu Mk 13 sẽ có tầm bắn vượt trên 900m.
Súng trường bắn tỉa M40 đã được lính thủy đánh bộ Mỹ sử dụng kể từ Chiến tranh Việt Nam tới nay. |
Tầm bắn này vẫn chưa thể sánh được với súng bắn tỉa M2010 có tầm xa gần 1.200m và khẩu Precision Sniper Rifle có tầm bắn 1.450m. Tuy nhiên khẩu súng mới sẽ là sự cải tiến đáng kể về tầm bắn và sức công phá so với M40.
Tuyên bố trên được đưa ra trong bối cảnh Lực lượng Thủy quân Lục chiến đang tiến hành các bước đáng kể để nâng cao khả năng tấn công tầm xa của các binh lính bắn tỉa. Vào tháng 1, lực lượng này đã thử nghiệm khẩu M38, một phiên bản của khẩu súng trường M27 để xem xét trang bị khẩu súng này cho các binh lính bắn tỉa.
Trước đó, trong báo cáo chi tiêu năm 2019 của Lực lượng Thủy quân Lục chiến, họ đã dành khoảng 1 triệu USD để mua về 116 khẩu súng trường bắn tỉa bán tự động M110A1 nhằm “nâng cao khả năng đối đầu với nhiều mục tiêu di dộng của lính bắn tỉa”. Dù vậy, khẩu súng này không được coi la phương án thay thế cho M40 do tầm bắn của nó thấp hơn đáng kể với 800m.
Như vậy, khẩu Mk 13 có thể coi là lựa chọn cuối cùng của lực lượng để thay thế M40. Mặc dù trong kế hoạch ngân sách của họ không đề cập đến việc mua thêm Mk 13, song lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ đã yêu cầu thêm 4,3 triệu USD trong năm 2018 đến mua thêm các thiết bị mới, một khoản tiền mà tạp chí Marine Corp Times tin rằng là phù hợp để cung cấp khẩu súng mới cho các binh
lính bắn tỉa.
Những mảnh đời trôi nổi của người Việt trên Biển Hồ
|
MẬT ONG
Nhiều người cho rằng mật ong là một trong nhiều chất dinh dưỡng quý giá nhất mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Để tỏ lòng trân trọng, họ còn gọi mật ong bằng những cái tên văn vẻ như bách hoa tinh, bách hoa cao, phong đường, phong mật...
Mật ong đã là món ăn ưa thích của con người từ thuở xa xưa.Hơn bốn ngàn năm về trước, dân Ai Cập và Ấn Độ đã nuôi ong để lấy mật, nhưng phải đợi tới cả ngàn năm sau, người nuôi ong mới biết được là để có mật, ong phải hút chất ngọt từ nhụy hoa.
Mật ong là thực phẩm ngọt chính của con người cho tới thế kỷ thứ 15, khi . đường trắng được tinh chế.Tuy vậy, ngày nay mật vẫn còn rất phổ thông vì nó làm tăng hương vị thực phẩm, làm dịu ngọt thức ăn, nước uống và cũng để trị bệnh
Vài điều về ONG
Ong là những côn trùng sống thành từng bầy đoàn kết như một xã hội có tổ chức. Một bầy ong thường thường có một ong chúa, trên 1000 ong đực và nhiều ngàn ong thợ. Đôi khi có hai ong chúa, một mẹ một con. Ong thợ rất bận rộn và chỉ thọ được 28 ngày.
Ong Chúa lớn hơn và sống lâu hơn các ong khác. Thực ra Ong chúa cũng chỉ là ong bình thường nhưng được nuôi dưỡng liên tục bằng một thực phẩm đặc biệt gọi là mật ong chúa hay sữa ong chúa ( Royal Jelly) trong khi đó ong thợ chỉ được dùng sữa này có ba ngày. Ong Chúa sống lâu hơn ong thợ tới 60 lần. Mỗi năm ong chúa đẻ tới bốn, năm trăm ngàn trứng vào khoảng giữa tháng Chạp, khi thời tiết bắt đầu lạnh,
Trong tổ ong, mỗi cá nhân tự quyết định công việc phải làm, và làm việc rất quy củ, nhịp nhàng. Chúng liên lạc với nhau bằng nhiều hình thức, đặc biệt nhất là bằng ngôn ngữ vũ điệu trong đường bay theo hình số 8. Ong cần cù làm việc và cũng sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ tổ ấm khi có xâm lăng, nhất là từ những gấu rừng ham ăn, ưa thích mật ong.
Khi đậu trên hoa, Ong lấy mật hoa, phấn hoa, nước. Thực phẩm chính của ong là phấn hoa và mật hoa. Mật cung cấp cho ong carbohydrat và đạm chất. Phấn hoa được ong tiêu thụ ngay hoặc để dành dùng dần, đôi khi cả tháng.
Ong làm mật.
Mật ong được làm từ nước ngọt nhụy hoa với 20% nước và 80% đường glucose, fructose.
Ở Bắc Mỹ, đa số mật hoa là từ cỏ ba lá (clover), berry bushes, cây dại hoa vàng (dandelion).
Ong dùng lưỡi dài như một cái ống để hút mật hoa vào bao tử riêng biệt. Ong có hai bao tử: một để chứa và tiêu hóa thực phẩm và một bao tử chỉ để chứa mật hoa. Trong bao tử này, mật hoa được các diêu tố chế biến thành mật ong.
Vào mỗi sáng sớm, một vài chú ong “trinh sát” bay lượn trong phạm vi vài cây số để kiếm hoa. Chúng sẽ hút thử một số mật nhụy mang về cho các ong khác giám định phẩm chất. Khi đã quyết định mật hoa nào tốt thì cả bầy ong sẽ kéo nhau tới hút mật hoa. Việc hút nhụy không làm hại tới hoa, mà trong khi hút lấy nhụy thì ong cũng giúp hoa thụ phấn.
Để có được một bao tử đầy mật (khoảng 70mg), ong phải hút nhụy từ vài trăm đến cả vài ngàn bông hoa. Cho nên, muốn có nửa lít mật cần tới nước ngọt của cả triệu bông hoa.
Khi về đến tổ, một nhóm ong thợ khác hút lại mật hoa này, biến chế, rồi rải rộng trong những ngăn của tổ, dùng cánh để quạt cho bay hơi nước. Sau đó mật ong được tồn trữ trong khuôn gắn kín bằng sáp, để làm lương thực suốt năm. Một năm bầy ong ăn hết từ 50 tới 100 kg mật.
Các loại mật ong.
Mật ong là một chất lỏng, hơi sền sệt, từ không mầu tới mầu hổ phách vàng nâu hoặc nâu sậm như mật mía, tùy theo loại mật hoa. Phẩm chất của mật cũng thay đổi tùy theo địa phương, loại hoa mà ong hút phấn và nhụy.
Mật ong thường được thu hoạch vào mùa Xuân và mùa Hạ, buổi sáng hoặc trưa khi ong bay đi ăn xa.
Từ tổ ong, mật được lấy ra bằng máy ly tâm, diệt trùng bằng hơi nóng và hơi lạnh, lọc vẩn cặn rồi vô chai. Để tăng thêm số lượng, người làm mật có thể pha thêm đường trắng hoặc nước ngọt của bắp vào mật trước khi tung ra thị trường.
Mật tốt nhất là thứ không hâm nóng, không lọc vì khi hâm nóng sẽ làm mất đi mốt số chất dinh dưỡng và phấn hoa. Mật ong không bị nhiễm độc từ môi trường vì ong chết khi chạm phải những chất ô nhiễm trước khi bay về tổ.
Mật ong có thể được cất giữ ở nơi khô ráo trong nhà mà không cần để trong tủ lạnh. Để lâu, mật có thể đổi sang mầu đậm nhưng vẫn không hư vì trong mật có một loại kháng sinh thiên nhiên có thể tiêu diệt các ký sinh làm hư mật. Nhưng sau khi pha loãng với nước thì mật sẽ mau lên men và mau hư như trái cây hoặc rau đậu.
Khi giữ nơi nhiệt độ lạnh, mật có thể kết tinh. Chỉ cần để trong lò vi ba hay trong nồi nước ấm độ vài phút là mật ong lỏng trở lại.
Sữa Ong Chúa ( Royal Jelly ).
Đây là một chất lỏng đặc sánh, mầu trắng như sữa, do những hạch đặc biệt ở cuống họng ong thợ tiết ra.
Vì thấy rằng ong chúa nuôi bằng mật này sống lâu hơn và cơ thể to hơn nên mật đã được nhiều người ưa chuộng và giá tiền rất đắt. Sữa ong chúa được bán trong ống nhỏ bịt kín, viên con nhộng, kem bôi, dung dịch để thoa, xà bông rửa mặt...
Nhiều người tin rằng sữa ong chúa có thể “cải lão hoàn đồng”, làm hết các vết da nhăn trên mặt, nuôi dưỡng da, thuốc bổ tăng cường sức khỏe, giúp đời sống tình dục tốt. Các nhà sản xuất còn quảng cáo là sữa ong chúa chữa được các bệnh đau gan, phong thấp khớp, thiếu máu, loét bao tử...
Phân tích cho thấy sữa ong chúa có chất đạm, chất béo, carbohy drat, một số sinh tố B. Tuy nhiên, khi dùng sữa này, ta cũng nên dè dặt vì đã có trường hợp sữa gây ra dị ứng, hoặc bị lên cơn suyễn.
Giá trị dinh dưỡng
Ngoại trừ trái cây và rau đậu, mật ong là nguồn thiên nhiên duy nhất cung cấp cho con người những chất ngọt dễ tiêu.
Trong mật ong, đường chiếm tỷ lệ 80%; còn lại 20% là nước và các chất khác. Hai thứ đường chính là glucose và fructose Xin nhắc lại là đường trắng tinh chế đã mất hầu hết sinh tố và khoáng chất nên đều khó tiêu và cần một vài sinh tố B để được bao tử hấp thụ.
Ngoài đường ngọt, mật ong còn chứa khoáng chất, sinh tố B, C, các chất amino acid, một ít chất đạm, vài loại men và mấy hợp chất thơm.
Một muỗng canh mật ong có 0.1 gr đạm chất; 17.3 gr carbohydrat, 1 mg calcium, 1 mg phosphor, 64 calori. Mật không có chất béo nhưng có sinh tố B 6, B 1, Magnesium, maganese, natri, kẽm.
Một bác sĩ giải phẫu người Nga đã làm tăng các sinh tố trong mật ong bằng cách nuôi ong với nhiều loại sinh tố.
Mật ong thường được ăn nguyên chất với bánh mì. Cũng có thể pha mật ong với bơ hay margarin rồi phết lên bánh mì. Mật ong có thể ăn với trái cây, khoai...
Khi nấu, một vài chất dinh dưỡng trong mật bị nhiệt tiêu hủy, nên cần giữ nhiệt độ vừa phải và chỉ cho mật ong vào nồi khi món ăn đã gần chín.
Bỏ lò, mật ong thấm với các gia vị khác vào thực phẩm nên ít bị thay đổi.
Mía được làm thành đường tinh chế sau khi chất xơ, các sinh tố và khoáng chất bị lấy đi. Maple syrup cũng được nấu chế trước khi trở thành món ăn. Riêng mật ong thì hoàn toàn tự nhiên, lấy ra từ tổ ong là dùng được ngay.
Mật ong có nhiều mùi vị khác nhau, vì đôi khi ong bay xa cả trăm cây số để hút nhụy hoa của nhiều thảo mộc khắp nơi trên trái đất. Dù mùi vị có khác nhau, mật ong không mau hư, có thể cất giữ ở ngoài tủ lạnh.
Công dụng trị bệnh
Từ nhiều ngàn năm về trước, các sách y học Ai Cập đã coi mật ong là thuốc chữa bệnh rất phổ thông. Hippocrates khuyên dân chúng pha mật với nước uống để làm giảm nóng sốt.
Trong các cuộc chiến tranh vào thời cổ Hi Lạp, Trung Hoa, La Mã, người ta đã biết dùng mật ong để chữa vết thương bị làm độc.
Sách tham khảo The Edinburgh New Dispensatory xuất bản năm 1811 có ghi: “ Từ xưa, mật ong đã được dùng như một loại thuốc rất tốt để làm long đờm, làm mềm dịu các mụn nhọt, để rửa các vết lở loét trên da”.
Tại Úc châu và Tân Tây Lan, mật ong được phép bán như một dược phẩm để trị bệnh.
Như vậy, ta thấy mật ong đã là một môn thuốc dân gian từ lâu đời.
Mật ong đã và đang được dùng để chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian hoặc các nhà nghiên cứu trong những trường hợp sau.
-Mật ong bồi bổ , tăng cường sinh lực, rất tốt cho người bị bệnh đang hồi phục. Uống mật ong trước khi vận động cơ thể khiến ta không cảm thấy mệt và tập luyện lâu hơn.
-Mật ong làm bớt căng thẳng, làm thư giãn thể xác và tâm hồn.
-Trước khi đi ngủ, uống mật ong khiến giấc ngủ ngon hơn. Theo một nghiên cứu của Viện Công Nghệ Massachusetts (Massachusett Institute of Technology-MIT), chất ngọt của mật làm não tiết ra nhiều serotonin mà serotonin lại làm dịu hoạt động của não, khiến ta ngủ dễ dàng.
-Mật làm sự tiêu hóa được dễ dàng nhờ chất đường dễ tiêu glucose và fructose
-Mật ong làm giảm ho vì thông đàm, rất tốt cho người bị suyễn, viêm cuống phổi, ho gà.
-Mật có phấn hoa nên đã được dùng để làm cơ thể quen dần với phấn hoa, tránh dị ứng theo mùa, nhất là vào mùa xuân. Đấy cũng là nguyên tắc được áp dụng để làm người dị ứng với phấn hoa trở nên quen đi bằng cách tiêm một lượng rất nhỏ phấn hoa vào cơ thể.
-Mật ong rất tốt để làm bớt đau cuống họng, làm sạch răng miệng, làm mau lành lở miệng, lở mép nhờ có chất hydrogene peroxide.
-Mật ong làm mau lành các vết thương ngoài da, có tính cách khử trùng và là hàng rào tốt để cản sự xâm nhập của vi trùng vào các vết thương.
-Các nghiên cứu ở Ấn độ cho thấy bệnh nhân bị phỏng mà được bôi bằng mật thì da mau lành hơn là chữa với thuốc trị phỏng silver sulfadiazine.
Một bác sĩ giải phẫu người Anh nổi tiếng đã bôi mật ong lên các vết thương và thấy vết thương mau lành hơn là khi bôi thuốc kháng sinh.
-Các bác sĩ nhi khoa ở Phi châu cho hay mật ong rất công hiệu trong việc chữa bệnh tiêu chẩy trẻ em do vi khuẩn Salmonella, E coli gây ra. Mật ong diệt vi sinh vật bằng cách hút hết chất lỏng trong vi khuẩn, làm chúng trở nên khô héo.
Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) khuyên người đi du lịch mắc bệnh tiêu chẩy thì uống nhiều nước cam có pha mật ong, một chút muối và một chút baking soda đề bù lại số nước và khoáng chất mất đi.
-Nhờ có khoáng chất boron, mật ong có thể phòng ngừa bệnh loãng xương, nhất là ở nữ giới. Chất này cũng làm giảm các triệu chứng khó chịu khi có kinh nguyệt.
-Mật ong rất tốt cho da: Thoa trên da, mật ong làm da mịn, mềm hơn vì mật giữ độ ẩm cho da. Mật làm bệnh trứng cá mau lành; bôi lên tóc, mật làm tóc bóng mượt và mềm.
-Mật ong có một lượng chất chống oxy hóa (antioxidant) tốt tương đương như sinh tố C, nên có khả năng làm chậm tiến trình lão hóa của tế bào sinh động vật, giảm nguy cơ ung thư. Mật càng đậm càng có nhiều chất chống oxy hóa.
Cơ quan Kiểm Soát Bệnh Tật Hoa Ky (Center for Disease Control and Prevention)lưu ý là không nên cho trẻ em dưới một tuổi dùng mật ong vì cơ thể các em chưa đủ sức chống lại loại vi khuẩn gây bệnh trúng độc thực phẩm (clostridium botulinum ), đôi khi có lẫn trong mật.
Kết luận
Những con ong nhỏ bé nhưng với sự tinh xảo do thiên nhiên ban cho đã tốn nhiều công sức để tạo ra món thực phẩm ngon lành, bổ dưỡng và quý giá để cho con người tận hưởng.
Nhưng mật ong dù tốt cũng không phải là loại thực phẩm có thể thay thế cho tất cả. Hơn nữa, nếu lạm dụng mật ong quá mức thì chắc chắn cũng sẽ có những phản ứng bất lợi cho cơ thể. Vì thế, cho dù sẵn có mật ong để dùng, chúng ta cũng biết hạn chế ở một mức độ vừa phải mà thôi.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét